THƯ GỬI NGƯỜI THI SĨ TRẺ TUỔI

RAINER MARIA RILKE


 THƯ GỬI NGƯỜI THI SĨ TRẺ TUỔI


Dịch giả: HOÀNG THU UYÊN (PHẠM CÔNG THIỆN) 


AN TIÊM 1969 





LỜI DẪN

Dạo đó là cuối thu năm 1902 – tôi ngồi đọc một cuốn sách dưới những cây dẻ già trong khuôn viên của học viện quân sự ở Neustadt, Wien. Tôi chăm chú vào đó đến nỗi không hay biết là cha Horacek, ông thầy hiền từ và uyên bác, giáo sư duy nhất trong học viện không mang hàm sĩ quan, đến bên tôi tự lúc nào. Ông cầm cuốn sách từ tay tôi, nhìn bìa sách và lắc đầu. "Thơ Rainer Maria Rilke ư?", ông tư lự hỏi. Ông lật vài trang, lướt qua vài câu thơ, trầm ngâm nhìn ra xa, cuối cùng thì gật đầu. "Vậy là cậu bé René đã thành một nhà thơ." Và tôi được ông kể cho nghe về cậu bé xanh xao mảnh dẻ, hơn muời lăm năm trước được cha mẹ dẫn đến học trường trung học quân sự ở Sankt Pölten để sau này thành sĩ quan quân đội. Khi ấy thầy Horacek đang làm cha sở ở đó, ông còn nhớ rõ cậu học trò cũ. Ông mô tả, đấy là một thiếu niên lặng lẽ, nghiêm trang, đầy năng lực, ưa làm người ngoài cuộc, nhẫn nại chịu đựng cảnh bó buộc của sinh hoạt trong kí túc xá, và bốn năm sau thì cùng nhiều học trò khác chuyển lên trường cao học quân sự ở Mährisch –Weißkirchen. Dĩ nhiên thể lực của chàng trai không đủ để trụ lại đó, nên cha mẹ lại đưa về Praha để học trường khác. Đường đời của chàng sau này ra sao thì cha Horacek không biết. Cũng dễ hiểu là nghe xong, tôi lập tức quyết định gửi những thử bút của mình cho Rainer Maria Rilke và xin ông cho ý kiến. Chưa đầy hai mươi, lại đang đứng trước nguỡng cửa của một nghề trái với sở nguyện, tôi hi vọng nếu có nổi một ai đó để chia sẻ cảm thông thì đấy phải là tác giả của tập "Ngã ca". Và tôi gửi kèm một bức thư, trong đó không chủ định mà tôi bỗng thổ lộ mọi tâm tình như trước đây chưa chưa bao giờ và sau này cũng không lặp lại lần thứ hai với ai khác. Nhiều tuần trôi qua mới có thư trả lời. Bức thư gắn xi mầu xanh mang dấu bưu điện Paris cầm nặng trong tay, và trên phong bì cũng như trong thư, từ dòng đầu đến dòng cuối đều cùng một nét chữ đẹp, rõ, vững chãi. Quan hệ thư từ của tôi với Rainer Maria Rilke bắt đầu từ đó, đều đặn, kéo dài đến năm 1908 rồi tắt dần, vì cuộc đời đẩy tôi vào chính những lĩnh vực mà lòng quan tâm ấm áp nhẹ nhàng và cảm động của nhà thơ từng mong tránh đỡ cho tôi. Nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là muời bức thư sau đây, quan trọng cho nhận thức về cái thế giới mà Rainer Maria Rilke đã sống và sáng tạo, và quan trọng cho nhiều người đang và sẽ trưởng thành của hôm nay và ngày mai. Và khi một bậc vĩ nhân lên tiếng thì những kẻ nhỏ bé hãy lặng im. 

Berlin, tháng Sáu 1929 
Franz Xaver Kappus


LỜI MỞ ĐẦU CỦA DỊCH GIẢ


Mười bức thư sau đây của thi sĩ Rainer Maria Rilke là một kiệt tác trong văn nghệ hiện đại Đức quốc. Không ai còn lạ với thiên tài và tên tuổi của Rainer Maria Rilke, ông là thi sĩ nổi tiếng nhất và cô đơn nhất trong văn nghệ Đức ở thế kỷ XX. Những người quen thuộc với tư tưởng của Heidegger đều biết rằng Heidegger đã dành cho Rilke một vị thế trang trọng ưu liệt trong cuộc song thoại giữa tư tưởng (Denken) và thi tưởng (Dichten). Trong sự suy tưởng về Rilke, Heidegger đã viết những câu quyết định như vầy:


“Trong thời đại đêm tối của thế giới, hố thẳm của thế giới phải được học và học cho cạn. Mà muốn thế thì phải có người với tới hổ thẳm”.


Heidegger đã nói như trên trong buổi kỷ niệm ngày giỗ R.M. Rilke. (Rilke chết ngày 29, tháng chạp, năm 1926).

Hố thẳm là gì? Có ai đã nói tới hố thẳm? Và với tới mức độ nào? Đây là những câu hỏi lửa máu đã được đặt lên giữa đêm tối tàn nhẫn của quê hương.

Cuộc đời của Rilke, nỗi cô đơn của ông những bước chân lang thang cô tịch của ông, đôi mắt diệu vợi sâu thẳm hừng lửa của ông, tất cả những cử chỉ ấy nói lên những gì cho con người trẻ tuổi Việt Nam hiện nay?

Mỗi một người trẻ tuổi của Việt Nam đều là một thi sĩ; mười bức thư sau đây của Rilke là mười tiếng nói được gửi về bất cứ người thi sĩ trẻ tuổi nào đang sống trên mặt đất trần trụi này. Sống và sống một cách thơ mộng trên thế giới sâu kín này, phải chăng đó là tiếng ca của con chim không tên, đồng vọng lên một sớm mai hồng đang nằm phong kín trong đêm tối sinh ly?


HOÀNG THU UYÊN
(tức PHẠM CÔNG THIÊN)
14. 1. 1969.

No comments:

Post a Comment