CHƯƠNG IX
ĐIỀU CHI
CAO QUÝ?
257
Mọi nỗ lực nâng cao tầm vóc của loài “người” cho đến nay đều là sản phẩm của xã hội quý tộc - và muôn đời vẫn thế: một xã hội tin tưởng vào chiếc thang dài thứ bậc và giá trị sai thù giữa con người với con người và nó cần một tình trạng nồ lệ trong một ý nghĩa nào đó.
Nếu không tồn tại cái257
Mọi nỗ lực nâng cao tầm vóc của loài “người” cho đến nay đều là sản phẩm của xã hội quý tộc - và muôn đời vẫn thế: một xã hội tin tưởng vào chiếc thang dài thứ bậc và giá trị sai thù giữa con người với con người và nó cần một tình trạng nồ lệ trong một ý nghĩa nào đó.
cảm thức về khoảng cách mà ta nhận thấy khởi lên từ một sự
phân biệt giai cấp đã trở thành máu thịt, từ ánh mắt trông ra
và nhìn xuống thường trực của giai cấp thông trị đối với giai
cấp bị trị mà đồng thời cũng là công cụ, và khởi lên từ một
quá trình thực hành cũng kiên trì bền bỉ như vậy trong hành
vi phục tòng và sai khiên, trong sự đàn áp và xa lánh, nếu
không có cảm thức ấy thì những cảm thức kỳ bí hiểm khác
249
kia cũng không bao giờ có thể nảy nở được, chẳng hạn như
ước muốn nới rộng khoảng cách ngày càng lớn hơn trong
chính tâm hồn, hay tạo nên những trạng thái mỗi lúc một cao
hơn, hiếm hoi hơn, xa hơn, trải rộng hơn, bao quát hơn, tóm
lại là nâng “con người” lên cao hơn, chính là một quá trình
“con người siêu việt tự thân” diễn ra không ngừng; nói thế
để hiểu cái mô thức luân lý trong ý nghĩa siêu luân lý. Cô"
nhiên, ta không được để cho mình có cái ảo tưởng nhân bản
về lịch sử hình thành của xã hội quý tộc (vì như thế tức là
tiền giả định về cái chức năng nâng cao tầm vóc “con người”
của nó-): chân lý không bao giờ dễ dàng. Chúng ta hãy thẳng
thắn với nhau không cần khách khí về sự khởi đẩu của mọi
nền vãn minh cao viễn cho đến nay đã diễn ra như thế nào!
Con người vẫn còn mang bản tính thiên nhiên, con người
man di mọi rợ trong mọi ý nghĩa đáng sợ nhất, con người dã
thú, vẫn còn mang trong lòng sức mạnh ý chí cùng với lòng
thèm khát quyền lực không bao giờ cạn kiệt, nó vồ lấy
những chủng tộc yếu đuối, đường hoàng, hòa ái, và có lẽ
sống bằng thương nghiệp hoặc chăn nuôi, hoặc vồ chụp
những nền văn minh bệ rạc, già nua, chính vào cái lúc mà
chút sinh lực sau cùng của nó tóe lên những chùm pháo hoa
của tinh thần và đọa Lạc. Đẳng cấp tôn quý ban sơ bao giờ
cũng là giai cấp mọi rợ: tính cách ưu việt của nó không phải
trước hết nằm ở sức mạnh thể chất, mà ở trong sức mạnh
tâm hồn - họ là những con người trọn vẹn hơn (và trên mọi
bình diện, điều này đồng thời có nghĩa là những “con thú
trọn vẹn hơn”).
250
258
Khái niệm suy đồi muốn nói lên một điều rằng, khuynh
hướng vô chính phủ đang đe dọa bên trong lòng bản năng,
và cấu trúc nền tảng của tình cảm, còn được gọi là “đời
sống”, bị chấn động: tình trạng suy đồi, tùy vào mô hình đời
sông mà trong đó nó biểu hiện, là một diều gì đó có tính
cách sai biệt căn bản. Chẳng hạn, khi một xã hội quý tộc, xã
hội quý tộc Pháp giai đọ an đầu cuộc Cách mạng, vứt bỏ
những đặc quyền của nó với một thái độ khinh bỉ trác việt,
và hiến dáng tự thán tự thể cho ngập tràn những tình cảm
luân lý: thì đây là tình trạng suy đồi - nó thực ra chỉ là màn
sau cùng của một quá trình suy đồi kéo dài cả thế kỷ, mà
thông qua quá trình đó, nó từng bước từ bỏ uy quyền thống
trị của nó và tự giáng xuống làm cái chức năng của vương
quyền (và sau cùng thậm chí làm xiêm y, trang sức cho
vương quyền ấy). Song, bản chất của một xã hội quý tộc
khỏe khoắn, lành mạnh chẳng phải ở chỗ nó cảm thấy bản
thân đóng vai trò làm một chức năng nào dó (dẫu là chức
năng của vương quyền hay là chức năng của cộng đồng), mà
ở chỗ nó là ý nghĩa và là một sự biện minh hùng hồn nhất
cho sự tồn tại của vương quyền - và vì vậy, với lương tám
trong sáng, nó chấp nhận hy sinh vô số con người mà vì nó
phải chịu đè nén và hạ thấp xuống thành những còn người
thiếu hoàn thiện, thành nô lệ và công cụ. Niềm tin căn bản
của nó chính là, xã hội không thể tồn tại vì bản thân xã hội,
mà phải là một kết cấu làm nền tảng, nâng đỡ cho loại tinh
thể ưu tú vươn đến nhiệm vụ cao cả hơn, và nói chung là
vươn đến địa vị của một hoạt thể cao viễn hơn: có thể sánh
với một loại dây leo thèm khát nắng trời, được gọi là Sipo
251
Matador, trên đảo Java; cành nhánh của nó ôm riết lấy thân
sồi mãi miết trong một thời gian thật dài, để rồi cuối cùng,
vẫn nương trên thân cây ấy, nó có thể vươn cao lên, trải rộng
vương miện của nó ra dưới nắng trời tự do và mở phơi niềm
phúc lạc của nó trong cõi đời lồng lộng.
Kềm chế để không gây thương tổn nhau, không thô bạo
và lợi dụng nhau, đặt ý chí của mình ngang hàng với ý chí
của tha nhân: tất cả những điều này, trong một ý nghĩa thô
thiển nào đó, có thể trở thành một tập quán ứng xử tốt đẹp
giữa cá nhân với nhau, nếu như hoàn cảnh cho phép (tức là
có một sự tương đồng thực sự về sức mạnh, về thước đo giá
trị và sự tương thuộc giữa họ với nhau trong cùng một tổ
chức xã hội). Thế nhưng, ngay khi người ta muốn dẩy cái
chuẩn tắc này đi xa hơn và có lẽ thậm chí còn coi nó như
một nguyên lý trong xã hội, tức thì nó hiện ra trong diện mạo
chân thực của nó: như là ý chí phủ nhận đời sống, như là
nguyên ỉý của tán hoại và suy vong. Ở đây, ta cần phải suy
tư tìm tòi căn nguyên một cách triệt dể và ngăn mọi sự yếu
đuối của tình cảm: đời sống tự bản chất của nó là một
khuynh hướng chiếm hữu, gây tổn thương, uy hiếp những
đối tượng xa lạ và yếu đuôi hơn, ỉà bức bách, là thô bạo và
áp đặt quy củ của riêng nó, là chiếm đoạt, và ít lắm đi nữa
cũng ]à lợi dụng - thế nhưng tại sao ta cứ phải sử dụng mãi
những từ ngữ như thế này khi mà chúng xưa nay đã bị người
ta gắn vào đó một ý đồ vu khống? Ngay đến cái tổ chức xã
hội mà trong đó, như đã đề cập lúc nãy, các cá nhân đối đãi
nhau một cách bình đẳng — điều này xảy ra trong mọi xã
hội quý tộc lành mạnh chính nó phải, nếu như nó là một tổ
chức xã hội sinh động chứ khống phải đang chết đần mòn,
chính nó phải đối đãi với những tổ chức xã hội khác theo
cách mà những cá thể trong nó kềm chế không làm đối với
252
nhau: nó sẽ phải là cái ý chí khát vọng quyền lực đầy sức
sống, nó cần phải phát triển, cần phải thâu tóm quanh nó, lôi
kéo về phía nó và giành địa vị thống trị — không phải vì
một lý do luân lý hoặc phi luân lý - mà vì nó sống, và vì đời
sông chính là ý chí khát vọng quyền lực. Song, không có
vân đề nào mà cái ý thức chung của người Âu châu lại dị
ứng với sự giáo hóa hơn là trong vấn đề này; ngày nay đâu
đâu người ta cũng mơ mộng, thậm chí dưới lớp vỏ khoa học,
về những hoàn cảnh tương lai của xã hội, trong đó cái “nhân
tố lợi dụng” sẽ biến mất - điều đó vang trong lỗ tai tôi như
thể người ta đang hứa hẹn phát minh một đời sống mà tất cả
các chức năng hữu cơ của nó sẽ đình chỉ. Sự “lợi dụng”
không qui thuộc về một xã hội suy đồi hay thiếu hoàn thiện
và sơ khai: nó thuộc về tinh thể của một sinh thể sông động,
như là một chức năng cơ bản, nó là hệ quả của ý chí khát
vọng quyền lực đích thực, và cũng chính là ý chí khát vọng
sinh tồn: nếu như điều này có thể coi là một lý thuyết mới
mẻ - mà thực tế nó lại là một sự kiện uyên nguyên của toàn
bộ lịch sử: thì chúng ta cũng cần phải thành thực với chính
mình như thế!
260
Sau khi du hành qua các miền luân lý khác nhau, tinh vi
có, thô thiển có, mà bấy lâu nay đã và đang ngự trị trên mặt
đất này, tôi nhận thấy có một sô" đặc điểm nào đó thường
xuyên qui hướng về nhau và kết hợp với nhau: cho đến khi
cuối cùng xuất hiện hai loại căn bản, và một sự phân biệt căn
bản khỏi lên. Đó là loại luân lý chả nhân ông và luân lý nô
lệ - tôi phải nói thêm ngay rằng trong tất câ các nền văn hóa
cao viễn và hỗn tạp, người ta cũng nhận thấy những cô"
253
gáng dung hòa hai loại luân lý ây, nhưng thường thì chúng
lẫn lộn vào nhau và ngộ nhận lẫn ĩihau, và có khi chúng
miễn cưỡng đứng kề nhau - thậm chí
ở cùng một con người, trong cùng một tâm hồn. Khuynh
hướng phàn biệt giá trị luân lý hoặc bắt nguồn từ tầng lớp
thông trị, những kẻ ý thức về sự khác biệt giữa mình vớí
tầng lớp bị trị trong một niềm khoái cảm — hoặc bắt nguồn
từ tầng lớp bị trị, những kẻ nô lệ, những kẻ lệ thuộc trong
mọi mức độ. Trong trường hợp trước, nếu tầng lớp cai trị là
chủ thể xác lập khái niệm “tốt”, thì chính những trạng thái
tâm hồn vừa cao quý vừa kiêu hănh được cảm nhận như là
những biểu hiện đặc biệt và có ý nghĩa xác định thứ bậc.
Con người cao quý xa lánh cái tinh thể mà ở đó tính cách đối
lập với những trạng thái tinh thần cao quý và kiêu hãnh bộc
]ộ ra: y khinh bỉ nó. Ta phải lưu ý ngay điều này: trong loại
luân lý đầu tiên, cặp đối lập “tốt” và “xấu” mang ý nghĩa
tương tự với “cao quý” và “đáng khinh bỉ” - cặp đối lập
“thiện” và “ác” có nguồn gốc khác. BỊ khinh bỉ là những kẻ
hèn yếu, sợ sệt, nhỏ nhen, những kẻ chỉ nghĩ đến những lợi
ích hẹp hòi; tương tự như thê là những kẻ đa nghi với cái
nhìn thiếu tự do, những kẻ cúi mình, những con chó trong
loài người chịu thân phận bị ngược đãi, những kẻ nịnh hót
van xin cầu cạnh, đặc biệt là những kẻ dôi trá - niềm tin căn
bản của xã hội tầng lớp quí tộc, ấy là quần chúng bình dân
có bản tính dối trá. “Chúng ta là những con người chân thật”
- những kẻ quí tộc trong xã hội Hy lạp cổ đại tự xứng như
thế. Rõ ràng, ồ đâu cũng vậy, sự khu biệt giá trị về phương
điện luân lý trước hết được đặt ra cho bản thân con người và
chỉ con người, nhiên hậu, nó được áp đặt lên hành vi: đó là
lý do tại sao những nhà nghiên cứu lịch sử luân lý đã phạm
một sai lầm nghiêm trọng khi họ khởi đì bằng một thắc mắc
254
đại loại như “tại sao một hành động nhân ái được biểu
dương?”. Loại người cao quý tự cảm thấy mình có đủ tư
cách xác lập giá trị, họ không cần sự chuẩn hứa của kẻ khác,
họ phán một lời “điều chi gây nguy hại đối với tôi thì tự nó
là điều nguy hiểm”, họ tự biết chính họ là những kẻ trao vinh
dự cho mọi sự, họ sáng tạo giá trị. Tất cả những gì họ nhận
thấy nơi bần thán, họ đều tôn vinh: luân lý như thế là khuynh
hướng tự vinh danh. Trên biểu diện, đó là cảm nhận về một
sự sung mãn, về một nguồn sinh lực sắp tuôn trào, đó là
niềm hoan lạc trong sự căng phồng cao độ, đó là ý thức về
sự phong nhiêu giàu có, muôn cho đi và dâng hiến. Con
người cao quý cũng giúp đỡ những kẻ bất hạnh, nhưng
không phải, hoặc gần như không phải, vì lòng trắc ẩn, mà
đúng hơn là vì một sự bức bách nào đó mà tinh lực sung
mãn tạo ra. Con người cao quý kính trọng kẻ mạnh mẽ trong
bản thân họ, cũng như kính trọng kẻ nào có sức mạnh thống
trị chính bản thân, kẻ biết nói và im lặng, kẻ thi hành sự
khắc nghiệt và cứng rắn đối với bản thân với một niềm khoái
lạc. “Wotan đặt vào lồng ngực ta một trái tim cứng rắn”, một
câu trong một truyền thuyết cổ đại vùng Scandinavia: nó
khỏi lên một cách thơ mộng và thích đáng từ tâm hồn của
một Viking kiêu hãnh. Loại người như thế thậm chí còn kiêu
hãnh vì đã không sinh ra trên cõi đời này để đón nhận lòng
xót thương lân mẫn: vì vậy vị anh hùng trong truyền thuyết
đã tiếp thêm một lời cảnh báo: “kẻ nào lúc trẻ mà còn chưa
có một trái tim mạnh mẽ, hắn sẽ chảng bao giờ có được một
trái tim mạnh mẽ”. Những con người cao quý và can đảm
nào nghĩ như vậy, sẽ cách biệt tuyệt mù với thứ luân lý kia,
thứ luân lý nhìn thấy dấu hiệu của đạo đức trong tấm lòng
trắc ẩn hoặc trong những nghĩa cử tốt đẹp đối với tha nhân
hoặc trong thái độ désintéressementa);
255
(1) Sđd (trang 191).
niềm tin vào bản thân, sự kiêu hãnh, bản tính thù địch và thái
độ mỉa mai đối với cái gọi là “vô kỉ” cũng quy thuộc về loại
luân lý cao quý một cách xác quyết như những thái độ khinh
bĩ và thận trọng trước sự dồng cảm và “trái tim ấm áp” vậy. -
Kẻ mạnh là kẻ biết kính trọng, đó là nghệ thuật của hắn,
vương quôc sáng tạo của hắn. Niềm kính trọng sâu xa đốì
với tuổi tác và nguồn gốc xuât thân - toàn bộ sự công chính
lập cước trên niềm kính trọng kép này niềm tin và niềm thiên
ái đôi với tiền nhân và những kẻ đi về trong tương lai, là
những gì tiêu biểu trong luân lý của những kẻ mạnh mẽ; trái
lại, khi mà những con người của “ý niệm hiện đại” đặt niềm
tin gần như một cách bản nàng vào sự “tiến bộ” và “tương
lai”, và lòng kính trọng của họ dối với tuổi tác mất dần đi, thì
đồng thời nguồn gốc bỉ lậu của “ý niệm” này dã bộc lộ ra
trọn vẹn. Song, luân lý của đảng cấp thống trị tỏ ra tuyệt đối
xa lạ và phản cảm đối với thị hiếu ngày nay trong tính cách
khắc nghiệt của thông tắc nền tảng của nóf ấy là người ta chỉ
có nghĩa vụ đối với những kẻ đồng đẳng; ấy là người ta có
thể tùy nghi hoặc “theo mệnh lệnh của con tim” trong môi
tương giao đối đãi với những tầng lớp thấp kém hơn hoặc
đối với mọi kẻ xa lạ, và trong mọi trường hợp bao giờ cũng
“bên kia thiện ác”: lòng trắc ẩn và những tình cảm tương tự
đều qui thuộc về đây. Khả năng và nghĩa vụ đối với món nợ
ân nghĩa lâu dài và môi thù truyền kiếp - cả hai điều này chỉ
diễn ra giữa những kẻ đồng đẳng - sự tinh vi trong hành
động báo thù, ý nghĩa tinh tế trong khái niệm bằng hữu, một
sự thiết yếu nào dó đòi hỏi phải có kẻ thù (như rãnh tháo
nước khai thông những trạng thái tình câm ganh tị, hiếu
chiến, hưng phấn — căn bản là để có thể trở thành bạn tốt):
tất cả những điều này là dấu hiệu của luân lý cao quý, và
256
luân lý cao quý này, như đã giải thích, không phải là luân lý
của “ý niệm hiện đại”, và vì thế mà ngày nay khó có thể cảm
nhận được, cũng như khó có thể khai quật nó lén và phơi bày
nó ra. Đối với trường hợp sau, luân lý nô lệ, sự vụ lại khác.
Nếu những kẻ bị bức hiếp, bị đàn áp, những kẻ chịu đau khổ,
những kẻ mất tự do hoặc chính trạng thái bất định và mỏi
mệt của những kẻ này đặt ra luân lý: thì đâu là điểm chung
trong phán đoán giá trị có tính cách luân lý của những kẻ đó?
Có thể sẽ xuất hiện một thái độ hoài nghi yếm thế đôi với
toàn bộ hiện trạng của con người, có thể là một thái độ kết án
con người cùng với hiện trạng của nó. Trong ánh mắt nhìn
của một kẻ nô ỉệ sẽ không có môi thiện cảm dành cho phẩm
hạnh của kẻ mạnh. Hắn mang lòng hoài nghi và ngờ vực,
hắn ngờ vực một cách tinh vi đối với tất cả những gì “tốt
đẹp” được tôn vinh nơi kẻ kia, hán muôn tin rằng hạnh phúc
của kẻ kia không phải là chân hạnh phúc. Trái lại, những
phẩm chất nào giúp làm vơi di cái gánh nặng nhân sinh cho
những kẻ đau khổ sẽ được lôi ra và gột rửa trong ánh sáng: ở
đây xuất hiện lòng trắc ẩn, những bàn tay tương trợ từ ái, con
tim nồng ấm, lòng nhẫn nại, sự cần mẫn, tính cách nhu hòa,
thân ái, tất cả những điều như thế được tôn vinh, bởi lẽ, ồ
đầy chúng là những phẩm chất có lợi nhất và gần như là
phương tiện duy nhất để nhẫn thọ áp lực của cuộc nhân sinh.
Luân lý nô lệ về bản chất là luân lý ích dụng. Đây là trung
tâm phát nguyên của cặp đối lập “thiện” và “ác” trứ danh kia
- nơi cái ác, người ta cảm nhận một thứ quyền ỉ ực nào đó và
môi nguy hiểm của nó, một sự khủng khiếp, tinh vi và cứng
rắn nào đó khiến cho lòng khinh bỉ không thể khởi lên. Dưđi
nhân quan của luân lý nô lệ, kẻ “ác” vì vậy gieo rắc niềm sợ
hãi; nhìn từ góc độ luân lý chủ nhân ông, chính kẻ “thiện”
257
gày ra và muốn gây ra sự sợ hãi, trong khi người “xấu” bị
xem là đáng khinh bỉ. Sự đối lập này đạt đến đĩnh điểm khi
mà bấy giờ, với hậu quả của luân lý nô lệ, sau cùng lòng
khinh thị vương lên tấm thân của kẻ “thiện” của luân lý này
như một màng lụa mỏng - nó có thể nhẹ nhàng và đầy thiện
ý vì trong đường lối suy tư nô lệ, kẻ thiện trong mọi trường
hợp phải là những con người không nguy hiểm: hắn tốt bụng,
dễ lừa dôi, có thể có chút gì đó trì độn, một bonhommea\ Bất
cứ ở đâu mà luân lý nô lệ chiếm ưu thế, thì ở đó ngôn ngữ có
khuynh hướng đẩy những ngôn từ như “tốt” và “trì độn”
xích lại gần nhau hơn. - Một sự phán biệt căn bản sau cùng:
sự đòi hỏi quyền tự do, bản năng mưu cầu hạnh phúc và sự
tinh vi trong cảm giác tự do, qui thuộc một cách tất yếu về
luân lý nô lệ và luân lý học nô lệ, cũng như nghệ thuật và
lòng nhiệt thành trong thái độ kính trọng, trong sự hiến dâng,
là một biểu hiện thường thấy của đường lối phán đoán giá trị
và tư duy quí tộc vậy. - Từ đó, không cần phải nói thêm cũng
có thể hiểu tại sao tình yêu, như là một cảm xúc đam mê -
đặc sản của người Âu châu chúng ta
- tuyệt đối phải có một nguồn gốc cao quí: như ta đă biết, sự
sáng tạo â'y qui thuộc về những thi nhân-hiệp sĩ xứ
Provence, những con người của ugai saber’'12' hùng tráng và
đầy sáng tạo mà Âu châu đã chịu ơn quá nhiều, gần như trọn
vẹn linh hồn và thể phách của nó.
261
Một trong những điều mà con người cao quý có lẽ khó
lĩnh hội nhất đó là sự phù phiếm: y bị cám dỗ phải chối bỏ
12 “Gai saber": “Khoa học hồn nhiên”
258
sự tồn tại của nó ở chính cái chỗ mà một loại người khác
nghĩ rằng đã bắt được nó trong hai tay. vấn đề đối với y, ấy
là phải biểu đạt những tinh thể đang tìm cách đánh thức một
dư luận tích cực về chúng, một điều mà bản thân những tinh
thể ấy không thể tự có được - và vì vậy không thể “tạo ra”
được - tuy nhiên, những tinh thể đó về sau lại tin vào chính
dư luận này. Đô'i với y, dường như có gì đó vừa quá thiếu cá
tính và thiếu tôn trọng đối với bản thân, vừa phi lý trí một
cách quái dị khi mà y muôn nắm bắt sự phù phiếm như một
điều lệ ngoại hơn và hoài nghi về nó trong hầu hết những
trường hợp mà người ta nói về nó. Chẳng hạn, y sẽ nói: “tôi
có thể sai lầm về giá trị của tôi, tuy nhiên, tôi vẫn muốn cái
giá trị mà tôi đã xác lập ấy phải được kẻ khác thừa nhận -
thế nhưng đó không phải là sự phù phiếm (mà là một sự kiêu
căng hoặc thường được gọi là sự “khiêm tốn” hay “thật
thà”). Hoặc cũng có thể nói như thê này: “vì nhiều lý do, tôi
có thể hài lòng với ý kiến tích cực của tha nhân, có lẽ bởi vì
tôi tôn trọng và yêu quý họ và chia sẻ mọi niềm vui của họ,
cũng có lẽ vì ý kiến tích cực của họ có ý nghĩa tán thành và
tăng thêm lòng tin của tôi đôi với dư luận tích cực về cá
nhân tôi, có lẽ vì dư luận được đưa ra, dẫu tôi không đồng
tình, nhưng có ỉợi cho tôi hoặc hứa hẹn một ích lợi nào đó -
thế nhưng, tất cả những điều ấy chẳng phải là sự phù
phiếm.” Thông qua một sự cưỡng bách, tức là nhờ sự trợ
giúp của lịch sử, con người cao quý phải hiểu ra một điều
rằng, tự thuở xa xăm tuyệt mù, trong mọi tầng lớp chịu lệ
thuộc về mặt nào đó, quần chúng bình dân chỉ là những gì
được cho là xứng đáng với họ - hoàn toàn không quen thuộc
với việc xác lập giá trị, họ không được đánh giá theo một
thang giá trị nào khác hơn là cái thang giá trị mà chủ nhân
259
của họ chọn cho {quyền năng đích thực của chủ nhản là
sáng tạo giá trị). Ta có thể hiểu sự kiện những con người
bình thường ngày nay thậm chí bao giờ cũng chỉ chờ đợi dư
luận về mình và rồi theo bản năng mà phục tòng dư luận ấy,
như là một hiện tượng trùng phục khổng lồ của bản tính
nguyên thủy: thế nhưng tuyệt đôi chẳng phải chỉ có những
dư luận “tích cực”, mà còn có những dư luận tiêu cực và
thiếu thỏa đáng nữa (chẳng hạn, ta thử nghĩ đến phần lớn
những lời tự kiểm và tự hạ thấp bản thân mà những người
đàn bà mộ dạo học được từ vị thần phụ chứng giám những
lời xưng tội của họ, và nói chung những gì mà những tín đồ
Cơ đốc mộ đạo học được từ Giáo hội của họ). Thực tế gìờ
đây, khi trật tự dân chủ trong mọi sự (và nguyên nhân của
nó, đó là sự pha trộn, giữa dòng máu chủ nhân ông và và
dòng máu nô lệ) dần dần xuất hiện, cái xung lực hiếm hoi và
cao nhã uyên nguyên thôi thúc người ta tự cung cấp cho bản
thân một giá trị nào đó và “nghĩ tốt” về bản thân, ngày càng
được khuyên khích và mở rộng: thế nhưng bao giờ cũng
vậy, nó đi theo một khuynh hướng đã thâm nhập lâu dài
hơn, phổ biến hơn, căn bản hơn, chông lại bản thân nó - và
trong hiện tượng “phù phiếm”, khuynh hướng lâu đời hơn
này lấn át khuynh hướng mới. Kẻ phù phiếm hài lòng đón
nhận mọi dư luận tích cực mà hắn được nghe (ở đây ta hoàn
toàn không đặt vấn đề lợi ích của dư luận, và cũng không
nói đến chuyện đúng sai), cũng vậy, hắn đau khổ trước
những dư luận tiêu cực: vì hắn chịu khuất phục trước cả hai
khuynh hướng ấy, cho nên hắn cảm thấy hắn bị khuất phục
trước chứng, sự vụ ấy là do cái bản năng chinh phục lâu đời
nhất kia đã khởi lên trong nó. - Đó là tên “nô lệ” trong huyết
quản của con người phù phiếm, là chút ranh mãnh của nô lệ
260
còn sót lại - và chẳng hạn như ngày nay, ta hãy nhìn xem, có
biết bao “nô lệ” còn sót lại trong con người đàn bà! nó tìm
cách lôi kéo dụ dẫn dư luận tích cực về phía nó, để rồi sau
đó, chính kẻ nô lệ khuất thân phủ phục trước dư luận này,
như thể nó đã không từng trước đó mời gọi dư luận đó đến
vậy. - Và tôi lập lại một bận nữa: tính cách phù phiếm chính
là hiện tượng cách đại di truyền.
262
Một giống loài nào đó xuất hiện, một loại nào đó trở nên
cứng cáp, mạnh mẽf thông qua cuộc đấu tranh lâu dài với
những điều kiện sống về cơ bản luôn luôn bất lợi. Mặt khác,
ta có thể biết được từ kinh nghiệm của những người chăn
nuôi rằng, những giống loài nào được nuôi dưỡng sung túc
và nói chung được quan tâm chãm sóc tót thì nhanh chóng
có khuynh hướng, trong một cách thái mạnh mẽ nhất, đa
dạng hóa về loại và sản sinh ra biết bao điều kỳ diệu và lạ
lùng (đồng thời cả những khuyết tật kỳ quái nữa). Bây giờ ta
hây thử xét một bận cái xã hội quí tộc, ví dụ như polis13 của
Hy lạp cổ đại hay thành Venice, một mô hình xã hội, dù vô
ý hay hữu ý, phục vụ cho mục đích nuôi dưỡng đào luyện:
trong môi trường này, con người tồn tại bên nhau và chỉ biết
cậy vào chính bản thân, họ muốn đưa nòi giống của mình
vượt lên, chủ yếu là vì họ buộc phải như thế, nếu không
muôn đi đến cái tai họa khủng khiếp là bị diệt vong. Môi
trường này thiếu những điều kiện tốt và sự sung túc, thiếu sự
bảo vệ, nói chung, thiếu những điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển đa dạng. Giông loài cần phải tồn hoạt với tư cách
13 Polis: Thành phố {ở Hy lạp thời cổ đại).
261
là một giông loài, như một cái gì đó mà chính nhờ có sự
cứng rắn, sự đồng nhất, sự đơn giản trong hình thái của nó
mà nói chung nó có thể vượt lên và kéo dài sự tồn tại trong
cuộc đấu tranh trường kỳ chống lại những kẻ xung quanh
nó, hoặc với những kẻ bị áp bức nổi loạn hoặc đe dọa nổi
loạn. Vein kinh nghiệm phong phú nhất dạy cho nó biết
nhận ra những phẩm chất nào mà chính nhờ đó, mặc cho sự
quấy nhiễu của chư thần và con người, nó vẫn cứ tồn tại và
bao giờ cũng chiến thắng: những phẩm chất này nó gọi là
đức hạnh, và nó chỉ nuôi dưỡng những đức hạnh này. Nó
thực hiện điều này bằng sự cứng rắn, thật vậy, nó muốn sự
cứng rắn; mọi luân lý quí tộc không chấp nhận sự dung thứ
trong sự giáo dục trẻ con, trong sự dạy dỗ đàn bàf trong lễ
nghi cưới hỏi, trong môi quan hệ già trẻ, trong việc áp dụng
luật hình (chỉ áp dụng cho những kẻ hư hỏng) - chính thái độ
bất dung thứ này được họ kể như một trong những đức hạnh
và được bao hàm trong ý nghĩa “công chính”. Một loại
người có ít đặc điểm nhưng rặt những đặc điểm mạnh mẽ,
một loại người mạnh hơn, ngoan cường hơn, biết im lặng
một cách thông minh hơn, kín đáo và khép kín hơn (và vì
thế nó có những cảm xúc tinh tế nhất trước vẻ quyến rũ và
sắc thải của nhân quần xã hội) được xác lập bằng cách này
thông qua quá trình đổi thay tiếp nôi giữa các thế hệ; cuộc
tranh đấu trường kỳ với các điều kiện bao giờ cũng bất lợi,
như đã nói, là nguyên nhân khiến cho một chủng loại trở nên
bền vững và cứng rắn. Thế nhưng, sau cùng vào lúc nào đó,
một dịp may xuất hiện, tình trạng căng thẳng khổng lồ kia
dịu đi; có thể không còn kẻ thù trong số những kẻ láng giềng
quanh nó nữa, và phương tiện để sinh tồn, thậm chí để
hưởng những lạc thú của đời sông, xuất hiện muôn vẻ. Sợi
262
dây trói buộc và cưỡng bách của phép tắc cũ đứt tung: nó
không còn cảm thấy chính nó như là một cái gì tất yếu qui
định cuộc nhân sinh nữa. Nêu nó muôn tiếp tục tồn tại, thì
nó chỉ có thể tồn tại như một kiểu xa xỉ, một loại thị hiếu cổ
hóa. Một sự đa dạng hóa, dù là một sự dị hóa (thành chủng
loại cao viễn hơn, tinh tế hơn, hiếm hoi hơn) hay là một sự
thoái hóa, quái thai, đột nhiên xuất hiện trên vũ đài với tinh
lực sung bố và vẻ huy hoàng của nó. Cá tính mạo hiểm làm
cá nhân và xuất ly. Tại khúc quanh lịch sử này, ta chứng
kiến một sự khởi sinh và tăng trưởng nùng mật như cây cỏ
nguyên sơ, phong phú một cách diệu kỳ, kề cạnh nhau, và
thường đan kết rô'i rắm với nhau, một loại tiết nhịp nhiệt đới
địa khu trong cuộc cạnh tranh phát triển và một sự tiêu trầm
và tự diệt vong khổng lồ, do những khuynh hướng tư kỷ
chông đôi nhau tàn khốc, như muốn bùng nổ, chúng vật lộn
nhau giành chút “nắng trời”, không biết đến chừng hạn và sự
tiết chế, không biết tìm ra kế hòa giải nào từ thứ luân lý tồn
tại bấy nay. Luân lý này chính là tác nhân dồn nén sức mạnh
thành một khôi khổng lồ và đã kéo căng chiếc cung đến mức
khủng khiếp - và giờ đây, giờ đây nó đã “bị siêu quá”. Cuộc
diễn hóa đã đạt đến đỉnh điểm của hiểm tượng và sự kỳ dị,
khi mà một đời sống đồ sộ hơn, đa điện hơn, bao trùm hơn
đã siêu quá luân lý cũ. “Cá nhân” đứng đó trong một tư thế
đòi hỏi nó phải chế định luật tác riêng, phải thực hiện những
kỹ nàng cũng như phương kê riêng giúp nó tự bảo tồn, tự
nâng mình lên và tự giải phóng. Toàn nhiên là những lời
chất vấn để-làm-gì, bằng-cách-nào trong cách thái mới mẻ,
không còn công thức chung nữa, sự ngộ nhận và lòng khinh
bĩ hòa quyện gắn kết với nhau, sự đọa lạc, băng hoại và
những khát vọng cao nhất xoắn lấy nhau thật khủng khiếp,
263
thiên tài của chủng tộc ứa tràn từ mọi chiếc sừng căng
phồng những điều tốt đẹp và xấu xa, sự xuất hiện đồng thời
đầy thảm họa của mùa xuân và mùa thu, cả một suôi nguồn
thanh tân tẽ mê quyến rũ và nhiều mộng ảo, đặc thù của trận
trầm vong non trẻ còn chưa kiệt tận, còn chưa mỏi mệt rã
rời. Môi hiểm họa một lần nữa hiện diện, mẫu thân của cô
nàng luân lý, một mối hiểm họa khổng lồ, lần này chuyển
dịch sang cá nhân, sang những kẻ thân cận và bạn hữu, nó
chạy vào ngõ hẹp, nhập vào con cái, vào con tim, vào những
chốn riêng tư kỳ bí nhất của ước vọng và ý chí: bấy giờ các
ông triết gia luân lý, những kẻ xuất hiện vào thời điểm này,
sẽ rao giảng điều chi? Bọn họ, những kẻ có con mắt quan sát
sắc sảo và chọn cho mình những chỗ đứng riêng biệt này,
bọn họ phát hiện rằng, sự vụ rồi ra sẽ sớm đi đến kết cục,
rằng mọi thứ quanh họ đang tiêu vong và gây ra sự diệt
vong, rằng mọi thứ sẽ không thể đứng vững được cho đến
ngày kia, trừ một loại người, đó là những kẻ bình phàm vô
phương cứu chữa. Duy chỉ những kẻ bình phàm có cái viễn
tượng sinh sôi, nhân rộng - bọn họ ỉà con người của tương
lai, những kẻ sống sót duy nhất; “Hãy hành xử như họ! Hãy
sông tầm thường!”, đó là tiếng nói của thứ luân lý duy nhất
còn có ý nghĩa, còn tìm thây lỗ tai lắng nghe - thế nhưng
thật khó khăn biết bao khi phải rao giảng loại luân lý của
những kẻ phàm phu! - nó không khi nào chịu thừa nhận nó
là gì và nó mong mỏi điều chi! Nó phải nói đến phép tắc, tư
cách, nghĩa vụ và tình yêu dành cho kẻ thân cận — Nó sẽ
cảm thấy hết sức khổ sd khi phải che giấu sự mỉa mail.
Có một loại bản năng hướng đến đẳng cấp, và tự nó,
hơn tất cả, là dấu hiệu của một đẳng cấp cao viễn; có niềm
khát khao những sắc thái sai biệt của lòng tôn kính, nó bộc
lộ nguồn gốc xuất thân và tập quán cao quý. Sự tinh tế, đẹp
264
đẽ và cao quý của một tâm hồn bị đặt trước một cuộc thử
thách trong một tình thế hiểm nguy khi xuất hiện một điều gì
đó qui thuộc về tầng lớp thượng đẳng đi ngang qua trước nó,
nhưng vẫn còn chưa được cơn khiếp đảm của uy quyền bảo
hộ trước bàn tay vồ chụp và vụng về quấy rốì: một điều gì
đó bước đi theo một đường lối không có gì đặc biệt, hành
tung bí mật, dường như thăm dò, có lẽ cố tình che đậy, cải
trang, như một viên đá thử sông vậy. Kẻ nào làm nhiệm vụ
và công việc khảo sát một tâm hồn nào đó, sẽ vận dụng nghệ
thuật này trong nhiều hình thức để xác định giá trị tối hậu
của tâm hồn ấy cũng như cái đẳng cấp bẩm sinh bất di bất
dịch mà nó qui thuộc về: hắn sẽ thực hiện cuộc thử nghiệm
đối với tâm hồn ấy khởi đi từ cái bản năng hướng đến sự tôn
kính của nó. Difference engendre hainea>: sự đung thường
có trong một vài tính cách, bất ngờ trào vọt lên như nước
bẩn, khi một chiếc thánh bôi nào đó, một món đồ trân quý
nào đó, được mang ra trước mặt từ trong một chiếc hòm
khoá kín, hoặc một quyển sách nào đó mang dấu hiệu của
một sô' phận vĩ đại được bày ra; và mặt khác, có khi là một
vẻ mặt ngây dại, một sự ngập ngừng trong ánh mắt, hay một
sự bất động trong cử chĩ, nói lên rằng, tâm hồn kia đang cảm
nhận sự kề cận của một điều gì dó tối
(1) Différence engendre haine: Sự khác biệt làm nảy sinh
lòng ganh ghét.
khả kính. Lòng tôn kính mà người ta nói chung vẫn dành
cho Thánh Kinh cho đến tận ngày nay ở Âu châu có lẽ là
phần giáo dục và tinh hoa tuyệt vời nhất của phong tục tập
quán mà người Âu châu mác nợ Cơ đốc giáo: những cuốn
sách mang ý nghĩa thâm áo và tối hậu như vậy cần sự
chuyên chế của một uy quyền bảo hộ đến từ bên ngoài mới
có thể tồn tại suốt một quá trình hàng nghìn năm cần thiết
để người ta có thể tìm hiểu rốt ráo và giải mã được chúng.
Kết quả đạt được thật lớn lao khi sô' đông to lớn (gồm
những kẻ nông cạn và bụng yếu, đủ mọi thành phần) cuôi
cùng đã được giáo dục để cảm nhận một điều rằng, bọn họ
không được phép sờ chạm vào mọi thứ, và rằng có những
kinh nghiệm thiêng liêng mà khi đối diện trước chúng, bọn
họ phải tháo giầy và rụt bàn tay lấm lem lại - nó gần như là
nấc thang cao nhất hướng đến nhân tính. Trái lại, nơi những
kẻ được gọi là học thức, những kẻ tôn sùng “ý niệm hiện
dại”, có lẽ không điều gì khiến cho ta kinh tởm hơn là, họ
không biết đến sự xấu hổ, ấy là vẻ lơ láo trơ trẽn trong ánh
mắt và bàn tay khi họ sờ mó, liếm láp mọi thứ; và có thể nói
rằng, ngày nay ta nhận thấy tính cách cao quý trong thị hiếu
và sự tinh tế trong tình cảm kính trọng, trong ý nghĩa tương
đổi, hiện diện ngày càng nhiều hơn ở những dân tộc thấp
kém, nói cách khác, ở những tầng lớp nông dân, so với một
nữa thế giới tinh thần có thói quên đọc báo được gọi là học
thức kia.
264
Ta không thể xóa đi khỏi tâm hồn của một con người những
điều mà cha ông họ đã gây dựng với tấm lòng yêu
thương thiết tha nhất và bền bĩ nhất: cho dẫu cha ông họ là
những con người cần mẫn dè xẻn và chẳng rời được cái bàn
viết và chiếc hòm tiền, mộc mạc và dung thường trong ước
vọng, và môc mạc cả trong đức hạnh; hoặc dẫu cho họ là
266
những con người quen với cuộc sống sớm hôm chỉ biết sai
khiến kẻ khác, đắm chìm trong những thú vui, và bên cạnh
đó thậm chí còn đắm chìm hơn nữa với nghĩa vụ và trách
nhiệm; hoặc dẫu cho cuối cùng một ngày nào đó họ hy sinh
những đặc quyền cũ về dòng dõi và tài sản để mà sông trọn
vẹn cho... niềm tin, cho... “Thượng đế” của họ, như những
con người khắc khe và nhạy cảm vẫn thường đỏ mặt trước
mọi sự trung gian. Không thể nào trong thân xác của một
con người nào đó không có những phẩm chất và những niềm
thiên ái được truyền thừa từ cha mẹ, tổ tiên, dẫu bề ngoài có
nói điều ngược lại. Đây là vấn đề chủng tộc. Nếu như chúng
ta biết chút gì đó về cha mẹ, thì chúng ta được phép kết luận
một điều gì đó về đứa con: một khuynh hướng thiếu tiết chế
đáng ghét nào đó, một sự ngấm ngầm đố kỵ nào đó, một sự
tự thị vụng về - bao giờ cũng vậy, ba điều vừa kể tạo nên
hạng quần chúng bình dân đích thực, ba dặc điểm đó phải di
truyền sang đứa con cũng chắc chắn như dòng máu đọa lạc
vậy; và với sự giúp đỡ của giáo dục, người ta cũng chỉ đạt
được đến cái chỗ dôi gạt kẻ khác về những đặc điểm di
truyền đó mà thôi. - Và sự nghiệp giáo dục ngày nay còn
muốn gì hơn thế! Trong thời đại có tính quần chúng cao của
chúng ta, tôi muôn nói có tính phàm phuf “giáo dục” và “đào
tạo” về bản chất phải là một loại nghệ thuật lừa dôi - lừa dối
để sao cho không còn nhận ra trong nguồn gôc cái dấu vết
tiện dân được thừa tự trong tâm hồn và thể xác. Nhà giáo
dục, kẻ mà ngày nay, trên tất cả, thuyết giảng về chân thực
tính và luôn miệng kêu gào bọn học trò của hắn: “Hãy chân
thật! Hãy tự nhiên! Hãy là chính mình!” — thậm chí một
con lừa đức hạnh và thành thực như thếT sau một thời gian,
có lẽ cũng học được cách chụp lấy cái furcam kia của
267
Horace, để mà naturam expelỉerem: và kết quả như thế nào?
“phàm phu” usque recurret(3K
265
Để không gây bất mãn cho những lỗ tai vô tội, tôi xin
nói như thế này: khuynh hướng vị k! quì thuộc về tinh thể
của tâm hồn cao quý, tôi muôn nói đến cái niềm tin không hề
lay chuyển rằng, cái tinh thể như trong thể thái “chúng ta
đang tồn hoạt”, là đối tượng mà mọi tinh thể tự nhiên khác
phải qui phục và hy sinh cho nó. Tâm hồn cao quý đón nhận
sự việc này không một chút thắc mắc, và nó cũng không cảm
thấy một sự khó khăn, miễn cưỡng hay một sự võ đoán nào
trong đó, đúng hơn, nó xem như là điều gì đó lập tồn trên
một luật tắc uyên nguyên chi phối mọi sự: nếu như nó muốn
tìm một cái tên cho điều đó, nó sẽ nói rằng: “dó chính là sự
công chính”. Trong những tình huống mà ban đầu khiến nó
dè dặt, nó thừa nhận rằng có những tâm hồn khác mang đặc
quyền như nó; ngay khi nó đã giải quyết vấn đề đẳng cấp, nó
di chuyển giữa những đối tượng đồng đẳng và có cùng đặc
quyền này trong niềm ngượng ngùng và kính trọng dịu đàng
với cùng một cảm giác an
(1) Furca: Cây nạng gảy rơm
(2) Naturam expellere: Xua đuổi, tống khứ thiên nhiên đi
(3) Usque recurret: Hồi qui vĩnh cữu toàn mà nó có được
trong mốì tương giao với chính nó — thuận theo một cơ chê
vốn có của trời cao mà mọi tinh tú đều hiểu. Tinh tế và biết
cách tự chế ước trong giao thiệp với những đối tượng đồng
đẳng, đây là một khía cạnh nữa trong tính cách vị kỉ của nó -
268
mọi vì tinh tú là một cá thể vị kỉ như vậy: nó kính trọng
chính nó trong những đôi tượng kia và trong những quyền
hạn mà nó trao cho chúng. Nó không hồ nghi về sự vụ rằng,
sự trao đổi danh dự và quyền hạn như là tinh thể của mọi
giao thiệp, cũng qui thuộc về một trạng thái thuận lẽ tự nhiên
của vạn vật. Khi cho cũng như khi nhận, tâm hồn cao quý
làm điều này xuất phát từ bản năng báo thù đầy đam mê và
nhạy cảm nằm nơi căn để của nó. Khái niệm “lòng từ” chẳng
có hương vị và ý nghĩa gì trong những trường hợp inter
paresaì; có thể có một cách thái trác việt nào đó trong việc
đón nhận tăng vật từ trời cao hạ tứ và uống cạn chúng như
những giọt cam ]ộ: thế nhưng, tâm hồn cao quý không khéo
léo lắm trong nghệ thuật và cử chỉ này. Ớ đây, lòng vị kỉ đã
ngăn trở nó: nói chung, nó không thích “ngước lên” - mà
hoặc là nhìn về phía trước, ngang với nó và thật chậm rãi,
hoặc nhìn xuống
- nó biết nó đang ở đỉnh cao.
266
“Ta chỉ có thể thực sự đánh giá cao kẻ nào không tìm
kiếm chính bản thân hắn”. Goethe viết cho Rat Schlosser
như vậy.
(1) Inter pares: Giữa những kẻ dồng đẳng
Người Trung hoa có một câu mà các bà mẹ vẫn thường
dạy con: siao-sin “Hãy khiến trái tim của con nhỏ bél”. Đây
đích thực là khuynh hướng căn bản của các nền văn minh
muộn mằn: tôi sẽ không ngạc nhiên nếu người Hy lạp cổ đại
cũng sẽ nhận ra ngay cái khuynh hướng tự làm nhỏ bé bản
thân của người Âu châu chúng ta ngày nay - chỉ thê thôi,
269
chúng ta cũng đã “trái ngược với thị hiếu” của họ rồi.
268
Nói cho cùng, như thế nào là bình phàm? Lời nói là biểu
hiện âm thanh của khái niệm; thế nhưng khái niệm lại ít
nhiều là biểu hiện hình ảnh xác định của những cảm giác
thường xuyên tái hiện và xuất hiện cùng lúc, của những
nhóm cảm giác. Để hiểu nhau, dùng cùng một lời nói thôi
vẫn chưa đủ; người ta phải sử dụng cùng một lời nói để biểu
đạt cùng một loại kinh nghiệm nội mật, cuối cùng người ta
cần phải có những trải nghiệm cộng thông. Bởi vậy, những
người của cùng một dân tộc dễ dàng hiểu nhau hơn so với
những con người thuộc các dân tộc khác nhau, thậm chí khi
họ sử dụng cùng một ngôn ngữ; hoặc nói đúng hơn là như
thế này: khi người ta chung sông với nhau lâu dài trong
những điều kiện giống nhau (khí hậu, thổ nhưỡng, hiểm họa,
nhu cầu, công việc), thì từ đó sẽ xuất hiện một cái gì đó
“hiểu được chính nó”, gọi là dân tộc vậy. Trong mọi tâm
hồn, một sô" kinh nghiệm thường xuyên tái hiện chiếm ưu
thê so với những kinh nghiệm ít xuất hiện hơn: người ta hiểu
nhau dựa trên những kinh nghiệm thường xuyên đó, và càng
lúc càng hiểu nhau nhanh hơn - lịch sử ngữ ngôn là lịch sử
của tiến trình qui giản; hiểu nhau nhanh chóng hơn khiến
người ta ràng buộc với nhau và gắn bó với nhau hơn. Tính
cách hiểm họa càng lớn thì nhu cầu có những tiếng nói
chung thật nhanh chóng và dễ dàng về những gì quan yếu
càng trở nên cấp thiết hơn; không ngộ nhận nhau trong hoàn
cảnh nguy hiểm, ấy là điều tuyệt đối cần thiết trong sự giao
thiệp giữa con người với nhau. Người ta vẫn thực hiện
270
những thử nghiệm như thế trong các mổì quan hệ tình cảm,
bạn bè: những mối quan hệ thuộc loại này sẽ không thể kéo
dài khi người ta phát hiện ra rằng, với cùng một lời nói,
người này cảm nhận, suy nghĩ, hiểu, ước muốn, sợ hãi khác
với người kia (nỗi sợ hãi ám ảnh trước sự “ngộ nhận vĩnh
cửu”: đó chính là cái thiên tài từ bi thường xuyên kềm giữ
những kẻ khác giới không cho vồ vập vội vàng lao vào cái
quan hệ gần gũi mà tai mắt và con tim thôi thúc - và nó
chẳng phải là cái “thiên tài của giống loài” nào đó của
Schopenhauer!). Những nhóm cảm giác nào bên trong tâm
hồn thức tĩnh, lên tiếng, ra mệnh lệnh nhanh nhất, đó là điều
quyết định toàn bộ hệ thống trật tự giá trị của chúng, và sau
cùng cũng qui định luôn những gì gọi là tốt đẹp trên bảng
giá trị của chúng. Quan điểm giá trị của một người hé lộ cho
chúng ta thấy một điều gì đó về kiến trúc của tâm hồn hắn,
và tâm hồn ấy tìm thấy những điều kiện qui định đời sống
cũng như nhu cầu thiết yếu của nó ở đâu. Nếu như nhu cầu
bao giờ cũng mang lại gần nhau những con người có thể cho
thấy những đấu hiệu giống nhau, những nhu cầu giông nhau,
những kinh nghiệm giông nhau, thi khả năng thông tin dễ
dàng về những nhu cầu cấp thiết, nói một cách rốt ráo tức là
kinh nghiệm về những sự kiện bình thường và cộng thông,
phải có thế lực mạnh mẽ nhất trong tất cả các thế lực uy bức
con người cho đến nay. Những con người giống nhau hom,
quen thuộc hơn, đã, đang và bao gid cũng sẽ chiếm ưu thế,
những kẻ ưu tú hơn, tinh tế hơn, hiếm hoi hơn, khó hiểu hơn,
đom giản phải chịu sự cô độc, và trong sự cô lập đó, số phận
của họ gắn liền với may rủi và ít khi có cơ hội phát triển. Ta
cần phải hiệu triệu một sức mạnh đối kháng khổng lồ mới có
thể vượt bàng qua cái progressus in similea) có tính chất tự
271
nhiên, hết sức tự nhiên này, cái tiến trình biên con người
thành tương tự, quen thuộc, dung thường, có tính cách bầy
dàn - thành những kẻ bình phàmĩ
269
Chừng nào mà một tâm lý gia - một tâm lý gia, một kẻ giải
minh tâm hồn bẩm sinh và không có chọn lựa nào khác
- càng quay trõ lại với những trường hợp lệ ngoại và những
con người ]ệ ngoại, thì nguy cơ y bị ngạt thở trong nỗi niềm
trắc ẩn càng lớn bấy nhiêu: y cần phải rắn rỏi và lạc quan
hơn bất cứ ai. Sự băng hoại và đọa lạc của con người cao
quý, của những tâm hồn mang thể thái lạ lùng, là vấn đề có
tính cách qui luật: thật khủng khiếp khi chứng kiến qui luật
ấy bao giờ cũng hiển hiện trước mắt ta. Nỗi khổ muôn chiều
mà kẻ tâm lý gia phải gánh chịu, kẻ đã phát hiện ra cuộc
trầm vong này, kẻ đã một lần phát hiện ra và rồi hầu như mãi
mãi sẽ phát hiện trở lại trong suốt lịch sử toàn thể “tính cách
vô vọng” này bên trong con người cao viễn, toàn thể cái đĩều
vĩnh viễn “quá muộn mằn!” này trong mọi ý nghĩa - nỗi
thống khổ ấy có thể một ngày nào đó sẽ trở
(1) Progressus in simile: Tiến trình đi đến sự đồng nhất
thành nguyên nhân khiến y quay nhìn trở lại sô' phận mình
cùng với niềm cay đắng và toan tự hủy hoại bản thân - khiến
y đi về với cuộc “trầm vong”. Ta có thể nhận ra hầu như nơi
mọi tâm lý gia một thiên hướng và khát vọng mang nhiều
ngụ ý, đó là thiên hướng và ước muôn giao thiệp với những
con người an ổn bình nhật: điều này ngụ ý rằng, y luôn luôn
cần một phương cách chữa trị, y cần một sự trốn chạy và
272
lãng quên, thoát khỏi những gì mà nhãn quan tinh tường và
sự sắc bén của y, những gì mà “nghề nghiệp” của y, đã đặt
vào tâm thức. Nỗi sợ hãi khi đôi diện trước ký ức là điều
riêng biệt đặc thù ở y. Trước nhận xét của người khác, y dễ
dàng thu rút lại trong sự lặng thinh: y lắng nghe với vẻ mặt
bất động về những gì được kính trọng, được ngưỡng mộ,
được yêu thươngf được thánh hóa, và cũng là những gì mà y
đã nhìn thấy — hoặc y chôn giấu cõi câm lặng của y khi bày
tỏ sự tán thành trước những nhận xét hời hợt nào đó. Có lẽ
tình cảnh phi lý của y đã đạt đến mức độ kinh hoàng khi mà
đôi với những điều mà ở đó y đã học được một niềm trắc ẩn
vĩ đại bên cạnh một thái độ khinh bỉ ngất trời, thì đám đông,
những kẻ học thức, những kẻ ảo vọng nhiệt thành, lại học
được một niềm kính trọng khổng lồ - sự kính trọng đôi với
những “con người vĩ đại”, những con thú thần kỳ, vì những
kẻ này mà người ta chúc phúc, kính trọng quê hương, mặt
đất, những giá trị tốt đẹp của nhân loại và chính bản thân,
những kẻ ấy là thần tượng mà người ta hướng bọn thiếu niên
đến và dạy dỗ chúng noi theo... Và ai biết được cho đến nay
trong tất cả các trường hợp quan trọng, phải chăng một điều
tương tự đã không xảy ra: đó là đám đông thờ phượng một
vị Thượng đế - và “Thượng đế” chỉ là một con vật hiến tế tội
nghiệp! Thành quả bao giờ cũng là một kẻ nói dôi vĩ đại - và
chính “công trình sáng tạo” là thành quả; một chính khách
lớn, một kẻ chinh phục, kẻ khám phá, được ngụy trang dưới
lớp vỏ sáng tạo của hắn đến mức ta không còn nhận ra diện
mạo của hắn được nữa; “công trình sáng tạo” của nghệ sĩ,
của triết gia, chỉ phát lộ kẻ nào đã sáng tạo và phải sáng tạo
ra nó; những “con người vĩ đại”, như vẫn được người ta kính
trọng, là những vần thơ tồi thấp thoáng phía sau; trong thế
giới của những giá trị lịch sử, sự hư ngụy làm chúa tể.
273
Những thi sĩ lớn chẳng hạn, những người như Byron,
Musset, Poe, Leopardi, Kleist, Gogol (tôi không dám nêu
những tên tuổi lớn hơn, mặc dù có nghĩ đến), - như họ giờ
đây rồi ra một lần như thế, mà có lẽ phải thế: những con
người của sát na mộng tưởng, nhiệt tình và nhiều dục vọng,
tâm hồn như trẻ thơ, nhẹ dạ và bất ngờ trong thất vọng lẫn
tin yêu; với một tâm hồn òm giữ vết rạn nứt nào đó thường
phải được giấu kín; thường báo thù cho vết nhơ lòng bằng
phát minh sáng tạo; thường vỗ cánh bay tìm quên lãng trước
mọi ký ức quá ư mật thiết; thường lạc lôi trong bùn nhơ và
toan đem lòng yêu thương nước đọng, cho đến khi biến
thành một thứ ma trơi lắt lay nơi đầm trạch mà vờ vĩnh tự
cho mình tựa ánh tinh quang - thế là quần chúng gọi họ bằng
danh xưng duy tâm luận giả thường đấu tranh với kinh tdm
lâu dài, với nỗi ám ảnh của bóng ma vô tín, cái bóng ma
khiến lạnh toát và cưỡng bức bọn họ khát vọng Gloriaa) và
nuốt trọn cái “đức tin tự đủ đầy” chìa ra từ đôi tay của
những kẻ say sưa xu nịnh - những kẻ nghệ sĩ vĩ đại này và
nói chung những con người cao viễn quả thật là một môi
khổ tâm cho những ai từng một lần nhìn ra con người họ! Rõ
ràng, bọn
(1) Gloria-. Sự vinh quang họ đã cảm nhận được chính từ
những người đàn bà - vốn là những kẻ thông linh trong cõi
khổ đau và tiếc thay luôn thèm khát làm chuyện vượt xa sức
lực của chính họ là dang tay tiếp trợ và cứu vớt - những đợt
phún xuất của một niềm trắc ẩn mênh mông và tuyệt đối
thiết tha phụng hiến mà đám đông, nhất là đám đông đang
bày tỏ lòng kính trọng, không hiểu nổi và vun đắp vào đó
bao nhiêu ý nghĩa ly kỳ tự mãn. Lòng trắc ẩn này thường
xuyên tự lừa dối bản thân về sức mạnh của nó; đàn bà muôn
tin rằng tình yêu có thể làm được tất cả - đó là đức tin đích
thực của họ. Thế nhưng, kẻ thấu hiểu được con tim sẽ nhìn
274
thấy ngay cả tình yêu cao cả và thâm sâu nhất cũng tỏ ra
nghèo nàn, ngu ngôc, vô vọng, tự phụ, nhầm lẫn, thường phá
hoại hơn là cứu giúp! - có thể đằng sau những gia thoại và
những điều thêu dệt về cuộc đời của Giê-su ẩn giấu một
trong những trường hợp tuẫn đạo đau đớn nhất của ý thức về
tỉnh yêu: sự tuẫn đạo của một trái tim trong sáng nhất và
nhiều khát vọng nhất, một trái tim không hề cảm thấy đủ đầy
thỏa mãn với tình yêu của con người, đòi hỏi tình yêu, đòi
hỏi được yêu và không gì khác hơn, bằng sự cứng rắn, bằng
nô nức cuồng dại, băng những bùng nổ khủng khiếp trước
những kẻ từ chối một tình yêu đối với ngài; lịch sử về một
con người không được được thỏa mãn và không bao giờ cảm
thấy thỏa mãn trong tình yêu, và con người ấy đã sáng tạo ra
địa ngục để ném vào đó những kẻ nào không chịu yêu ngài -
và sau cùng, khi ý thức được tình yêu của con người, ngài
phải sáng tạo ra một vị Thượng đế, một tình yêu trọn vẹn,
biết yêu thương trọn vẹn - vị Thượng đế ấy thương xót trước
tình yêu của con người, bởi lẽ họ quá khổ sở, quá ngây thơ!
Kẻ nào cảm nhận như thế, ý thức như thế về tình yêu, kẻ
ấy... tìm đến cái chết. - Thế nhưng, cớ sao cứ mãi bận tâm về
những sự vụ đau lòng như vậy? Nếu như ta không nhất thiết
phải thế?
270
Niềm kiêu hãnh và khinh bĩ của tinh thần nơi mọi kẻ đã
trải nghiệm tận cùng khổ đau - mức độ khổ đau có thể chịu
đựng được hầu như qui định đẳng cấp của con người niềm
xác tín lạnh lùng ngập tràn và thắm đẫm thể phách hắn, tin
rằng thông qua khổ đau của bản thân, hắn có thể hiểu nhiều
điều hơn mọi kẻ sáng suốt và thông thái nhất, rằng hắn quen
thuộc với nhiều thế giới khủng khiếp xa xăm và một lần nữa
bắt gặp trở lại “quê nhà”, những kinh nghiệm mà “các người
không hề bỉếtỉ”... Niềm kiêu hănh câm lặng của tinh thần nơi
kẻ trải nghiệm khổ đau, niềm tự hào của một kẻ được lựa
chọn của tri thức, niềm tự hào của một “truyền nhân”, của
275
một kẻ phải chịu hy sinh gần như trọn vẹn, niềm kiêu hãnh
ấy cảm nhận sự cần thiết phải sử dụng mọi hình thức ngụy
trang để bảo vệ nó trước sự sờ mó đụng chạm của những bàn
tay chia sẻ sỗ sàng và nói chung trước tất cả những gì không
sánh được với hắn trong những trải nghiệm đớn đau. Sự đau
khổ tận cùng khiên con người cao quý; nó là dấu hiệu khu
biệt; một trong những hình thức ngụy trang tinh vi nhất là
chủ nghĩa khoái lạc và một tính cách can đảm nào đó xuất
hiện về sau xem nhẹ khổ đau và chống lại những gì là u sầu,
trầm trọng. Có “những con người vui vẻ lạc quan” sông theo
tinh thần lạc quan, bởi lẽ nhờ đó mà họ bị ngộ nhận - họ
muốn mọi người ngộ nhận về họ. Có “những con người khoa
học” sông theo tinh thần khoa học, bởi chính điều này tạo
cho họ cái vẻ lạc quan hơn, và bởi vì tinh thần khoa học cho
phép kết
276
luận rằng con người nông cạn - họ muốn dẫn dắt đến
một kết luận giả dối. Có những tinh thần tự do trơ trẽn muốn
che giấu và phủ nhận một sự thật rằng họ là những trái tim
đổ vỡ, vô vọng và kiêu căng (thái độ hoài nghi của Hamlet -
trường hợp Galiani); và đôi khi, chính sự cuồng si ngu dại là
chiếc mặt nạ che đậy cái trí tuệ xác quyết lạc loài. - Từ đó
thấy rằng, biết bày tỏ lòng kính trọng “trước chiếc mặt nạ”
và không áp dụng tâm lý học cũng như sự hiếu kỳ vào những
chỗ sai lầm hời hợt, là biểu hiện của một nhân tính già dặn
tinh vi.
271
Điểm khu biệt sâu sắc nhất giữa hai con người với nhau
chính là sự khác biệt trong cảm nhận về sự thuần khiết cũng
như mức độ thuần khiết. Lòng chân thành dành cho nhau và
những lợi ích mang lại cho đôi bên, những thiện chí dành
cho nhau, tất cả những điều này chẳng có ý nghĩa gì: cuôì
cùng, tình hình vẫn thế - bọn họ “không ngửi nhau nổi!” Cái
bản năng hùng vĩ nhất hướng đến sự thuần khiết đặt kẻ gắn
liền với nó trong một tình thế cô độc kỳ dị nhất và nhiều
hiểm tượng nhất, tình thế của một thánh nhân: vì đó là thánh
nhân tinh thể vậy - đó là tinh thần hóa cái bản năng được nói
đến ở mức độ cao nhất. Một cảm thức song hành nào đó về
một niềm phúc lạc mộc dục dâng trào bất khả ngữ ngôn, một
sự tinh tấn và khát khao thường trực xô đẩy tâm hồn từ bóng
đêm ra bình minh và từ một vùng u ám, “ủ rũ” vào một vùng
sáng lấp lánh, thâm hậu, tinh thuần: khuynh hướng ấy - một
khuynh hướng cao quý, xuất hiện trong cách thái riêng biệt
như thế nào, thì đồng thời nó cũng khu biệt mọi sự như vậy.
274
277
Lòng trắc ẩn của hiền nhân thánh triết là lòng trắc ẩn đối với
sự nhơ nhớp bẩn thỉu của nhân tính, của một nhân tính quá
đỗi nhân tính. Và cũng có những tầng bậc, độ cao mà ở đó
kẻ thánh nhân cũng cảm nhận lòng trắc ẩn ấy không gì hơn
là một sự ô uế, một sự nhơ bẩn...
272
Dấu hiệu của sự cao quý: không bao giờ hạ thấp nghĩa
vụ của ta ngang bằng với nghĩa vụ của mọi người; không
muốn từ bỏ trách nhiệm, không muốn chia sẻ; coi đặc quyền
của ta và việc thi hành nó là một trong những nghĩa vụ của
ta.
273
Kẻ hướng đến cõi hoằng đại xem tất cả những người mà
hắn bắt gặp trên lối đi của hắn như một phương tiện hoặc
như một sự trở ngại làm chậm bước chân - hoặc như một
chỗ ngả lưng tạm thời. Cái thiện tính trong thể thái cao dại
đặc thù của hắn đối với những con người cùng hắn giao
thiệp, chỉ khả dĩ khi hắn đứng ở tầm cao và thống trị. Sự
thiếu nhẫn nại cùng với ý thức rằng hắn sẽ tiếp tục phải chịu
sô" phận tham gia vào một tấn tuồng hài kịch cho đến lúc ấy
- vi chiến tranh tự nó là một tấn hài kịch, và đồng thời nó
che giấu, như mọi phương tiện đều che giấu mục đích, sự vụ
ấy làm hỏng các mối giao thiệp của hắn: loại người này hiểu
được sự cô độc cũng như điều gì có thể coi là lưu độc khủng
khiếp nhất của nó.
278
Vấn đề đối với kẻ chờ đợi. - Phải cần đến hạnh vận và
biết bao yếu tô' không thể kể xiết nữa để con người cao viễn,
kẻ trì giữ trong lòng một đáp án đương ngủ yên, còn có thể
hành động kịp lúc - “dể đột phá”, có thể nói như vậy. Điều
đó nói chung sẽ không xảy ra, và ở mọi ngóc ngách trên mặt
địa cầu này, những kẻ chờ đợi vẫn đang ngồi đó, không hề
biết phải chờ đến bao lâu, và càng không biết rằng sự chờ
đợi ấy chẳng đem lại kết quả gì. Có khi ta nghe một tiếng
gọi trễ tràng đánh thức, cơ may “cho phép” ta hành động -
thì lúc bây giờ, tuổi trẻ và tinh lực dồi dào nhât đã bị tiêu phí
cho cuộc ngồi yên; và nhiều kẻ chính khi “bật dậy" đã khiếp
đảm biết bao khi nhận ra tứ chi tê dại và tinh thần đã quá
nặng nề! “đã quá muộn” - hắn tự nhủ, không còn tin tưởng
vào bản thân, và bấy giờ thiên thu vô dụng. - Phải chăng
trong vương quốc của thiên tài, lời rằng “Rafael không tay”,
trong ý nghĩa rộng rãi nhất, khống là lệ ngoại, mà là thông
tắc điều qui? - có lẽ, thiên tài chẳng phải ỉà hiếm hoi cho
lắm: thế nhưng đòi hỏi phải có năm trăm bàn tay mới có thể
áp chế cái “thời điểm thích hợp”, kairos, mới có thể túm
được cái búi tóc của cơ may!
275
Kẻ nào không chịu nhìn đỉnh cao của con người, sẽ nhìn
chăm chú hơn những gì ti tiện và hời hợt ở con người — và
thế là, hắn phơi bày luôn hình dung diện mạo của hắn.
276
279
Trong mọi trường hợp thương vong và thiệt hại, những
tâm hồn tầm thường và bỉ lậu may mắn hơn những tâm hồn
cao quý: mối hiểm họa đối với loại người sau át phải lớn
hơn, khả năng hắn gặp tai họa và đi đến chỗ diệt vong, trong
một hoàn cảnh sống chịu sự qui định của vô vàn nhân tố,
thậm chí to lớn vô cùng. - Con thạch sùng mất đi một ngón
chân còn mọc lại một ngón khác: người ta đâu thể.
277
Thật tồi tệ! Lại một câu chuyện lịch sử cũ kỹ! Khi người
ta đã hoàn thành xong căn nhà thì hốt nhiên nhận ra mình đã
học được một điều mà lẽ ra phải biết trước khi ...khởi sự.
Một tình thế “quá muộn mằn!” đau lòng muôn thuở - niềm u
hoài của mọi sự gì thành tựu!
278
Mi là ai, hỡi người lữ thứ? Ta nhìn thấy mi bước đi trên
lối đi của riêng mi, không mỉa mai cay độc, không yêu
thương, với đôi mắt không thể nào thấu hiểu; ướt át, buồn
rầu như hòn dọi không thỏa mãn với mọi độ sâu, một lần
nữa trồi lên ra ánh sáng - nó tìm kiếm điều chi dưới đó? - với
lồng ngực không biết thở dài, đôi môi che giấu niềm kinh
tởm, và bàn tay chỉ còn mày mò chậm rãi: mi là ai? Mi bận
bịu điều gì? Hãy nghỉ ngơi thư thả chôn này: lòng hiếu
khách ở đây ban cho mọi kẻ - hãy nghỉ ngơi đi! Và dẫu mi
280
là ai đi nữa: thì điều chi bấy giờ có thể khiến mi lạc ý? Điều
gì có thể giúp mi thư thái? Hãy gọi tên nó ra: ta sẽ dâng hiến
cho mi những gì ta có! - “để ta có thể thư thái? Để ta có thể
thư thái ư? 0, mi kẻ tọc mạch hiếu kỳ, những lời mi nói nghe
hay lắm! hãy cho ta, ta xin mi —” Điều gì? Điều gì? Hãy nói
đi! - “một chiếc mặt nạ nữa! thêm một chiếc mặt nạ nữa!”...
279
Những con người mang mối sầu vô tận sẽ phô bày tất cả
khi họ bắt gặp hạnh phúc: họ có cách bắt lấy hạnh phúc như
thể muốn bóp nó nghẹt thỡ vì lòng ghen tuông - ôi, họ biết
quá rõ nó sẽ ròi bỏ bọn họ mà xa chạy cao bay!
280
“Tệ quá! Thật tệ quá! Sao thế? Hắn không...trở lại
chăng?” - Có chứ! Thế nhưng các người đã không hiểu hắn
khi mở lời oán trách. Hắn sẽ trở lại, như mọi kẻ muôn thực
hiện một bước nhảy vĩ đại.
281
“Thiên hạ sẽ tin những lời tôi nói chăng? Nhưng tôi
muốn thiên hạ phải tin những lời tôi nói: bao giờ cũng vậy,
tôi có những suy nghĩ không hay về bản thân cũng như
những điều liên quan đến bản thân, chĩ trong những trường
hợp hết sức hiếm hoi, chỉ khi bị bức bách, chẳng bao giờ có
281
ý muôn “đi vào bản chất vấn đề”, sán sàng đi chệch khỏi
“tôi”, chẳng bao giờ tin tưởng vào kết quả, nhờ cái nghi tâm
quyết liệt đôi với khả tính của sự tự tri, một điều đã dẫn dắt
tôi đi xa đến mức nhận thấy ngay trong khái niệm “nhận
thức trực tiếp” mà các lý thuyết gia tán thành, một
contradictio in adjecto — toàn bộ sự vạ này hầu như là điều
chắc chắn nhất mà tôi biết về bản thân mình. Trong tôi phải
có một sự chông đối nào đó đôi với niềm tin rằng có một
điều gì đó xác định ở bản thân. - Có thể tồn tại một mé ngữ
nào trong đó chăng? Có thể lắm chứ; thế nhưng may thay,
không có thứ gì dành cho hai hàm răng của tói cả. - Có lẽ
điều đó bộc lộ cho thấy cái chủng loài mà tôi qui thuộc về
chăng? - Song, chẳng phải cho tôi thấy: như thế đôi với tôi
cũng là điều đáng mơ ước lắm”.
282
“Nhưng chuyện gì xảy đến với mi?” - “Tôi không rõ”,
hắn ngập ngừng đáp; “có lẽ những con Harpy đã bay lướt
qua chỗ bàn ăn tôi ngồi.” - Ngày nay, thỉnh thoảng sự việc
xảy ra như thế này: một con người dịu dàng, chừng mực, kín
đáo đột nhiên phẫn nộ, đập vỡ bát đĩa, xô nhào bàn ăn, hét,
quát tháo, mắng nhiếc nguyền rủa cõi đời - rồi sau cùng lánh
đi, xấu hổ, giận dữ với chính mình - về đâu? để làm gì? để
chết đói ở một nơi riêng biệt? Để nghẹt thở vì những hoài
niệm riêng tây? Kẻ nào mang sự thèm khát của một tâm hồn
cao viễn và khó tính, và hiếm khi nhận thấy bàn ăn được
dọn ra với thức ăn được bày biện sẵn, kẻ đó bao giờ cũng
đối đầu với những hiểm họa khủng khiếp: thế nhưng ngày
nay mối hiểm họa ấy thật phi thường. BỊ ném vào một thời
282
đại huyên náo và xô bồ quần chúng mà hắn không muôn ăn
chung một chiếc đĩa, hắn dễ dàng gục ngă vì đói, vì khát,
hoặc, nếu cuối cùng mà hắn có “chạm tay vào” thì cũng gục
ngã trước sự tởm lợm xâm chiếm. - Có thể tất cả chúng ta
đều đả ngồi vào cái bàn ăn không phải dành cho chúng ta;
và chính những kẻ trí tuệ nhất trong chúng ta, những kẻ khó
khăn trong chuyện ăn uống nhất, biết đến cái chứng khó tiêu
bắt nguồn từ một sự nhận thức và thất vọng bất ngờ về
những thức àn được dọn ra cùng với những con người ngồi
chung bàn với họ - ấy là cảm giác tởm lợm sau bữa ăn.
283
Nếu muốn ca ngợi, hãy ca ngợi về những điều mà
những kẻ khác chẳng tán thành, như thế mới là biểu hiện của
một khả năng tự chủ tinh tế và cao quý - trong những trường
hợp khác, có lẽ người ta ca ngợi chính bản thân, một điều
trái ngược với thị hiếu tốt đẹp - cố nhiên, ấy là một sự tự chủ
dẫn đến những tình huống khiến cho ta bị ngộ nhận triền
miên. Để có thể có được phong thái sang trọng trong thị hiếu
và luân lý này, ta không nên sông giữa những đầu óc ngu
muội, đúng hơn nên sông giữa những con người mà những
ngộ nhân và nhầm lẫn của họ khiến ta thú vị vì sự tinh tế của
chúr_g - bằng không ta phải trả giá đẩt! - “Hắn ca ngợi tôi:
nghĩa là hắn cho tôi có lý” - lối suy diễn ngu xuẩn này hủy
hoại nữa đời ẩn sĩ chúng ta, bởi lẽ nó mang đến những con
lừa đến bầu bạn và làm láng giềng vứi ta.
Sông trong một niềm tịch nhiên kiêu hãnh mênh mông;
luôn siêu việt Tùy nghi thể hiện hoặc không thể hiện cảm
xúc, tự tại trong sự chõng đối và thuận tòng, chiếu cô" đến
283
những điều như vậy trong nhiều giờ; cưỡi trên lưng chúng
như cưỡi trên lưng ngựa, mà đa sô' trường hợp như ngồi trên
lưng lừa - nghĩa là con người phải biết sử dụng sự ngu xuẩn
của nó như sử dụng lửa vậy. Dự phòng ba trăm cái biểu
điện; và cặp kính đen: vì có những trường hợp thiên hạ
không ai được nhìn vào mắt ta, đừng nói chi đến nhìn vào
“căn để”. Và đánh bạn với thói xấu trò vui bịp bợm mà
người ta gọi là sự nhã nhặn. Cai trị bôn đức hạnh của nó, ấy
là lòng can đảm, trực giác, sự cảm thông, sự cô độc. Vì sự
cô độc trong chúng ta là một đức hạnh, như một khuynh
hướng và bản năng trác việt hướng đến sự thuần khiết; Ĩ1Ó
linh cảm thấy sự tương giao tiếp xúc giữa con người với con
người “trong xã hội” phải đi đến chỗ nhiễm ô không thể
tránh khỏi. Mọi điều gì có tính chất cộng đồng, bằng cách
nào đó, ở chốn nào đó và vào một lúc nào đó, sẽ kết tinh
trong sự “bình phàm”.
285
Những biến cô" và tư tưởng vĩ đại nhất - mà những tư
tưởng vĩ đại nhất lại chính là những biến cô' vĩ dại nhất -
được lĩnh hội muộn màn nhất: những thê hệ nào sống dồng
thời với những biến cô" ấy sẽ không có được những trải
nghiệm về chúng - họ chỉ sông ngang qua những sự kiện ấy.
Tương tự như những diễn biến trong thế giới của những vì
tinh tú. Ánh sáng của những vì sao ở xa nhất đến với con
người chậm nhất; và trước khi nó đến, con người không chịu
nhận rằng có một ...vì sao ở chỗ nọ. “Cần bao nhiêu thế kỷ
284
để một tinh thần có thể được lĩnh hội?” - đó cũng là thước
đo mà người ta sử dụng để xác lập địa vị cũng như qui phạm
cần thiết: cho tinh thần và những vì tinh tú.
286
“Nơi đây tầm nhìn được tự do, tinh thần được chắp
cánh”
- Thế nhưng, có một loại người ngược lại, cũng đứng nơi
đỉnh cao và cũng có tầm nhìn tự dof thế nhưng... họ nhìn
xuống.
287
Cao quý nghĩa là sao? Khái niệm “cao quý” ngày nay
còn có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Những con người cao
quý bộc lộ ra ở đâu, và người ta nhận ra họ ở chôn nào dưới
vòm trời vần vũ u ám của thế lực phàm phu đang khởi sự
chuyển mình khiến cho mọi sự trở nên mờ mịt và nặng trĩu
một màu chì? - hành vi không phơi bày con người - hành vi
luôn hàm hồ đa nghĩa, mãi mãi chẳng nhìn thấy ngọn nguồn;
“tác phẩm” cũng thế. Ngày nay, ta nhận ra trong giới nghệ sĩ
và học giả, biết bao kẻ thông qua tác phẩm của mình đã bộc
lộ cho thấy niềm khát vọng sâu thẳm hướng đến sự cao quý
tác động lên họ như thế nào: thế nhưng, chính nhu cầu đối
với sự cao quý này lại khác biệt một cách căn bản so với nhu
cầu của tâm hồn cao quý, và chính điều này là một bàng
chứng hùng hồn và đầy hiểm tượng cho thấy rằng nó không
có một tâm hồn cao quý như thế. Không phải tác phẩm, mà
là niềm tin đóng vai trò quyết định và xác lập địa vị ả đây,
285
để tiếp nhận lại cái mô thức tôn giáo cũ kỹ trong một ý
nghĩa mới mẻ và sâu sắc hơn: một sự xác quyết căn bản nào
đó trong cảm nhận của tâm hồn cao quý về bản thân nó, một
điều gì đó không chịu làm đối tượng để ta tìm kiếm, phát
hiện, và có lẽ, để đánh mất. - tâm hồn cao quý kính trọng
chính nó.
288
Có những con người có được tinh thần trong một thể
cách tất yếu. Họ có thể vặn vẹo, xoay vần tùy ý và dùng hai
bàn tay che cặp mắt phản bội (- như thể bàn tay kia chẳng
phải là kẻ phản trắc vậy! -): cuối cùng, sự vụ vẫn thế: họ có
một điều gì đó mà họ che giâu, đó là tinh thần. Một trong
những cách thức tinh vi nhát để có thể lừa dô'i, ít ra là trong
thời gian lâu nhất có thể được, và để làm sao tỏ ra mình ngu
xuẩn hơn mọi người - một điều mà trong cuộc sống thường
quí báu vô cùng, như có một chiếc ô che mưa vậy, cách thức
ấy là lòng nhiệt thành: ngoài ra phải kể thêm một điều qui
thuộc về nó, đức hạnh chẳng hạn. Vì như Galiani, kẻ ắt đã
nhận ra điều đó, đã nói: vertu est enthousiasmew.
289
Ta nghe ra giữa những dòng chữ viết của người ẩn sĩ
(1) Vertu est enthousiasme: Đức hạnh là lòng nhiệt thành.
một điều gì đó bao giờ cũng tựa hồ như tiếng đồng vọng của
sa mạc bao la, như giọng thì thầm và ánh mắt nhìn quanh
ngượng ngùng của niềm cô độc; trong những lời lẽ mạnh mẽ
nhất của y, trong tiếng gào thét của y, cũng vang lên một thể
thái lặng im mới mẻ và nhiều hiểm tượng hơn. Kẻ nào mà
năm tháng trôi qua, ngày đêm đắp đổi, ngồi đó cô độc,
chứng kiến những cuộc giằng có bất hòa cùng những cuộc
đối thoại quen thuộc trong tâm hồn, kẻ nào nơi hang động
của hắn, có thể là mê cung, cũng có thể là mỏ vàng - trở
thành loài gấu sống nơi hang động, hoặc trở thành một kẻ
sàn báu vật, canh giữ bảo vật, hoặc biến thành tàng long nơi
huyệt động: thì mọi khái niệm của kẻ ấy sau cùng sẽ nhuốm
màu tà huy và bốc mùi vực thẳm như những thứ mục rữa
mốc meo, một điều gì đó không thể truyền đạt và gây khó
chịu, phả luồng hơi lạnh toát lên những kẻ qua lại. Kẻ ẩn sĩ
không tin có sự vụ rằng người triết gia - nếu như triết gia
bao giờ trước hết cũng phải là ẩn sĩ - đã từng bao giờ phô
bày những tín niệm chân thực và tối hậu của mình trên sách
vở: chẳng phải người ta chép ghi, trước tác là để bảo tồn kín
nhiệm những gì đang chôn giấu bên trong hay sao?
- ông ta thậm chí còn nghi ngờ về sự vụ rằng kẻ triết gia
người triết học nói chung có thể có một điều gì đó như là
những tín niệm “tôi hậu và chân thực”, rằng nơi ông ta, đằng
sau mọi huyệt động, không có và không nhất thiết phải có
một huyệt động còn sâu thẳm hơn - một thế giới phong phú
hơn, lạ lẫm hơn, quảng đại hơn, phủ trùm trên mọi biểu điện
hời hợt, một vực thẳm đằng sau mọi căn để, bên dưới mọi
“căn do”. Mọi triết học là triết học biểu diện
- đó là một phán đoán theo phong cách ẩn sĩ độc CƯ: “ có
điều gì đó dường như không bình thường khi hắn ngừng lại
ở đây, nhìn lại, nhìn quanh, đến đây hắn không đào sâu thêm
nữa, và vứt bỏ cuốc xẻng - có một điều gì đó thật dáng ngờ
287
trong chuyện này”. Mọi triết học đều che giấu đằng sau nó
một triết học khác; mọi nhận định đều là chốn oa tàng, mỗi
lời nói là một chiếc mặt nạ.
290
Mọi kẻ tư tưởng sâu sắc đều sợ bị hiểu đúng hơn là sợ bị
hiểu lầm. Trong trường hợp sau, có lẽ tính cách phù phiếm
của hắn bị thương tổn; song, trong trường hợp trước là con
tim của hắn, lòng trắc ẩn của hắn, nó không ngừng lên tiếng:
“Ôi, cớ sao các người cứ phải lận đận khổ sở với nó như ta
đây?”.
291
Con người, một con vật đa diện, dối trá, giả tạo và bất
minh, và khủng khiếp đối với loài thú khác do sự xảo quyệt
và thông minh hơn là vì sức mạnh của nó, nó đã phát minh ra
cái lương tâm tốt đẹp để được một lần thưởng thức tâm hồn
nó như một điều gì đó thật giản dị; toàn bộ luân lý là cả một
sự hư ngụy lâu đài và nhiệt thành, mà thông qua đó, cảm
giác khoan khoái trước hình ảnh tâm hồn thành ra khả dĩ.
Nhìn từ quan điểm này, có lẽ nội hàm của khái niệm “nghệ
thuật” còn phồn tạp đa đoan hơn người ta vẫn thường nghĩ
nhiều.
292
Triết gia: đó là một kẻ trải nghiệm, chứng kiến, nghe ra,
thắc mắc, hy vọng, mơ mòng về những điều tuyệt đối phi
thường; kẻ đã bắt gặp những tư tưởng của hắn như một điều
gì đó từ ngoài nhập vào, từ trên đáp xuống, từ dưới trồi lên,
288
như những biến cố, như những tia chớp riêng biệt đặc thừ
của hắn; hắn có thể là một cơn sấm động đương hoài thai
những tia chớp mới; một con người mang chở đầy tai ương
và quanh hắn bao giờ cũng là những càu nhàu, những gầm
gừ, những há hốc, và khủng khiếp bủa vây. Kẻ triết gia,
người tư tưởng: ôi, một sinh thể cứ rút ruột tuôn trào, thường
mang một nôi ám ảnh sợ hãi đối diện với tự thân - song, lại
quá tò mò không thể nào ngăn trở được cuộc “hồi qui tự
thể”...
293
Có người nói: “tôi yêu thích nó, tôi giữ nó cho riêng tôi
và muốn bảo bọc nó, bảo vệ nó trước bất cứ ai”; có người có
thể tiến hành một công việc nào đó, đi đến một quyết định,
trung thành với một tư tưửng nào đó, có thể giữ chặt một
người đàn bà, trừng phạt và áp chê một kẻ ngỗ nghịch; có
người mang theo bên người lòng phẫn nộ và một lưỡi gươm,
là kẻ mà những con người yếu mềm, những con người đau
khổ, những con người bị bức bách, và cả cầm thú cũng
muôn qui thuận, và qui thuộc về theo một lẽ tự nhiên, tóm
lại, một kẻ thiên sinh làm người chứa tể — khi kẻ ấy bày tỏ
niềm trắc ẩn, thì bấy giờ! lòng trắc ẩn này có giá trị đích
thực! Lòng trắc ẩn của một kẻ đau thương nào có nghĩa lý
gì! Hoặc thậm chí của những kẻ đang thuyết rao về lòng trắc
ẩn! Hầu như trên khắp dải đất Âu châu ngày nay xuất hiện
một sự nhạy cảm và một tình cảm dễ bị kích động bệnh
hoạn trước nỗi đau, cũng như một sự thiếu kiềm chế đáng
ghét của những lời oán trách, một sự nhu nhược được trang
hoàng diêm dúa bằng tôn giáo và mớ triết học triết lý ngổn
ngang để có được dáng dấp của một điều gì hoằng đại - đau
thương đang thọ nhận những nghi thức sùng bái long trọng.
Bản chất phi đàn ông của loại tình cảm mà cộng đồng tín đồ
289
nhiệt thành ây đã rữa tội đặt tên là “lòng trắc ẩn”, là điều
mà, theo tôi nghĩ, bao giờ cũng đập vào mắt trước hết. — Ta
cần phải ra tay quyết liệt và triệt để ngăn chặn loại thị hiếu
tầm thường tân kỳ bậc nhất này; và sau cùng, tôi mong
người ta dán vào tim và yết hầu của nó cái lá bùa ếm “gai
saber - khoa học hồn nhiên” để khiến người Đức tỏ ngộ về
điều này.
294
Tà hạnh của chư thần trên đinh Olympus. - Mặc cho kẻ
triết gia kia, một kẻ Ảng-lẽ chính cống, đã cô công biến
những tiếng cười của mọi đầu óc biết suy tư thành thói xấu
đáng khinh - “cười là một tật xấu tồi tệ trong bản tính con
người, mọi dầu óc biết suy tư sẽ phải làm sao khắc phục
được nó” (Hobbes) - tôi sẽ tự cho phép mình xác ỉập tôn ti
của các triết gia dựa trên địa vị tiếng cười của họ - cho đến
địa vị cao nhất là những người có khả nàng buông ra những
tràng cười bằng vàng ròng. Và nếu như, thần tiên cũng làm
triết học, và nhiều lý lẽ khiến tôi tin điều này thì tôi không hề
hồ nghi rằng họ cũng biết cười lớn trong thể thái mới mẻ của
siêu nhân - và bằng cái giá của tất cả những gì nghiêm túc
nhất! Chư thần vốn thích mỉa mai: dường như họ không thể
nhịn cười ngay cả trong những chuyện thiêng liêng.
Thiên tài của con tim, như điều mà cái cõi ẩn mật khổng
lồ kia sở hữu, một kẻ mê hoặc thần thánh, một kẻ đánh bẫy
tâm thức bẫm sinh, giọng nói của nó biết xâm nhập xuống
tận đáy sâu âm thế của mọi tâm hồn, nó không nói một lời
nào, không nhìn bằng một ánh mắt nào mà trong đó không
ngụ ý và khép mở một sự gạ gẫm, tài năng tuyệt diệu của nó
290
ấy là nó biết phô diễn - và không phải phô diễn cái hình
tướng của nó, mà là một điều gì đó khiến cho những kẻ
đương theo đuổi nó cảm nhận một sự gia tăng sức mạnh
cưỡng bức thôi thúc bọn họ tiến gần với nó hơn, dân bước
theo nó một cách nội mật hơn và triệt để hơn - thiên tài của
con tim, nó khiến cho mọi âm thanh huyên náo và tự mãn
càm nín và dạy chúng biết lắng nghe, nó san phẳng những
tâm hồn gồ ghề và ban cho khẩu vị của chúng một sự thèm
khát mới mẻ - được nằm im lìm tự tại như mặt gương sáng
để cả một vòm trời thăm thẳm soi bóng trong đó thiên tài
của con tim, nó dạy những bàn tay vụng về, bộp chộp biết
ngập ngừng và dạy chúng biết cầm nắm dịu dàng hơn, nó
linh cảm về một kho tàng trân bảo bị chôn giấu và bỏ quèn,
cả những giọt thiện lương và mật ngọt tinh thần ẩn đằng sau
lớp băng dày ô nhiễm, và đồng thời là chiếc gậy thần mò
mầm tìm kiếm từng mảy vàng bị chôn vùi giữa bùn cát trong
một thời gian dài nơi hố sâu; thiên tài của con tim, một khi
nó chạm đến kẻ nào thì kẻ ấy trở nên giàu có hơn, không
phải do ân sủng và may mắn bất ngờ, không phải do một
Đấng Toàn Thiện nào đó xa lạ ban phúc, an bài, mà giàu có
hơn ngay trong tự thể, mới mẻ thanh tân hơn trước, vỡ òa và
ngân vang trong từng trận gió ấm thổi thốc tới, có thể không
còn an ổn như trước nữa,
mềm mại mỏng manh hơn, dễ vỡ hơn, nhưng ngập tràn
những niềm hy vọng vẫn còn chưa có tên tuổi, sung mãn ý
chí và cuồn cuộn một suôi nguồn mới mẻ, sung mãn phi ý
chí và dạt dào một nguồn suôi nghịch hành cũng mới mẻ
thanh tân... Nhưng tôi đang miên man gì đây, hỡi các bạn
291
hữu? Tôi đang nói với các bạn về kẻ nào? Tói đã quên lãng
đến mức chưa một lần nêu ra danh tánh? Có lẽ thế, nếu như
các bạn tự mình vẫn còn chưa đoán ra cái tinh thần mà cũng
là tinh linh thần thánh đó là ai, kẻ muốn được ca tạng theo
thể cách như vậy. Cũng như sự vụ xảy ra với mọi người mọi
kẻ mãi mãi bước đi và ỉịch hành trong cõi miền xa lạ kể từ
thuở hai chân thơ dại biết máy động hình hài, tôi đã bao lần
gặp gỡ trên đạo lộ của mình rất nhiều những tinh thần hiếm
hoi và không phải không mang nhiều hiểm tượng, đặc biệt là
cái kẻ tôi vừa kể, và đã gặp ỵ lặp lại nhiều lần, tức là chẳng
thua kém thần Dionysus, một cá tính hàm hỗn và đồng thời
là một vị thẫn cám dỗ vĩ đại mà xưa kia, như bạn biết, tôi dã
dâng lên quả ngọt đầu mùa trong sự bí mật và niềm cung
kính — là kẻ tối hậu, tôi cho là vậy, thiết đàn hiền tế cho
ngài: bởi lẽ tôi không nhìn thấy kẻ nào khác hiểu những việc
thuở đó tôi làm. Bấy giờ, tôi đã học hỏi thêm được nhiều
điều, nhiều lăm lắm về triết lý của vị thần linh này, và, như
đã nói, thông qua sự truyền khẩu - tôi, món đồ cuối cùng và
đệ tử chân truyền của thần Dionysus: và có lẽ cuối cùng rồi
một ngày nào đó, tôi có thể khởi sự phối cấp cho các bạn,
hỡi các bạn hữu của tôi, một vài điều gì đó, trong khả năng
tôi, về triết ỉý này để các bạn thử cảm nhận chăng? Cô nhiên
chỉ bằng giọng thầm thì mà thôi: bởi vì nó quan hệ đến nhiều
chuyện bí mật, mới mẻ, xa lạ, kỳ dị và khủng khiếp. Thần
Dionysus vốn là một triết gia, và như thế chư thần linh còn
ỉàm triết học, điều
này xem ra đối với tôi là một chuyện mới mẻ không khỏi
khiến cho bốì rối, và có thể gây nên môi ngờ vực ngay trong
giới triết gia, - giữa các bạn với nhau, hỡi bạn hữu của tôi,
sự việc ấy còn ít chuyện để nói hơn, trừ một điều rằng, nó
đèn quá muộn và không đúng lúc: bởi lẽ ngày nay, theo chỗ
292
tôi thấy, các bạn chẳng mặn mà lắm với chuyện đặt niềm tin
vào Thượng đế và thần linh. Cũng có thể, với lối ăn nói
phóng túng của mình, tôi ắt đã đi xa hơn cái giới hạn của nề
nếp nghiêm cẩn mà lỗ tai của các bạn muốn nghe chăng?
Chắc chắn vị thần linh được nhắc đến còn đi xa hơn, xa hơn
nhiều lắm, trong những cuộc đôi thoại như vậy, và bao giờ
cũng đi trước tôi nhiều bước...Quả thật, nếu có thể, tôi muốn
trao cho ngài, theo tập quán của con người, những danh hiệu
trang nghiêm mỹ diệu của đức hạnh và nhan sắc huy hoàng;
tôi phải ca tụng lòng can đảm của ngài, lòng can đảm của
một kẻ tìm tòi và phát hiện, ca tụng lòng chân thành, chính
trực không biết sợ hãi cũng 0 như tình yêu của ngài dành
cho trí tuệ. Thế nhưng, một vị
thần như thế sẽ chẳng biết cư xử như thế nào với những
danh hiệu mỹ miều vô dụng ấy. “Hãy giữ lấy mà dùng”,
ngài sẽ nói, “cho chính mi và những kẻ như mi, ngoài ra
chẳng ai cần những thứ đó! Ta - chẳng có lý do gì để che
đậy sự trần trụi của ta!” - Người ta có thể đoán định rằng,
biết đâu loại thần thánh triết gia này chẳng biết xấu hổ ngại
ngùng? - Ngài đã có lần nói: “Có trường hợp ta cũng yêu
thương con người”, khi nói lời này ngài ám chỉ đến nàng
Ariadne lúc ấy đang hiện diện “con người là một con vật dễ
thương, can đảm, đầy sáng tạo, không có tạo vật thứ hai
sánh ngang với nó trên mặt đất này, nó khéo xoay xở trong
cái mê cung rổì bời kia. Ta yêu con người: ta thường suy
nghĩ làm thế nào đẩy nó tiến xa hơn, giúp nó mạnh mẽ
hơn, xấu xa hơn và sâu sắc hơn nó hiện tại.” - “Mạnh mẽ hơn, xấu xa
hơn và sáu sắc hơn?” tôi lấy làm kinh dị và chất vấn ngài. “Đúng”,
ngài lập lại một bận nữa, “mạnh mẽ hơn, xấu xa hơn và sâu sắc hơn;
và diễm lệ hơn nữa” - đoạn vị thần cám dỗ nở một nụ cười an lành,
như thể ngài vừa thổt lên một lời lịch thiệp đáng yêu. Và hốt nhiên ta
nhận ra: trong tinh thể thần linh thánh triết này không phải chỉ duy
thiếu vắng một niềm xấu hổ nói chung, có nhiều lý do thỏa đáng để
giả thiết rằng, trong một vài chuyện, thần thánh nói chung có thể cẩp
sách đến học hỏi ở con người chúng ta. Loài người chúng ta - người
hơn...
296
Các ngươi là cái chi chi, hỡi những tư tưởng được ta viết và vẽ
ra! Cách đây chưa lâu, các ngươi vẫn còn lấp lánh sắc màu, trẻ trung
và ranh mãnh, phủ đầy gai nhọn và toát lên một hương vị thầm kín
khiến ta hẩt hơi và bật cười
- và giờ đây? các ngươi đã rũ bỏ dáng vẻ thanh tân, và một vài kẻ
trong các ngươi đang soạn sửa, ta e là vậy, trở thành chân lý: chúng
đã bẩt đầu có vẻ gì đó quá vĩnh hằng bất diệt, quá chân thật đến đau
lòng và quá ư nhạt nhẽo! Và đã bao giờ sự vụ khác đi chãng? Chúng
ta viết và vẽ ra những điều gì vậy, chúng ta những người Trung hoa
cầm chiếc cọ Tàu, chúng ta những kẻ khiến cho mọi sự gì chịu mở
phơi trên mặt chữ trở thành bất diệt, duy nhất điều gì ta có thể vẽ ra?
Ôi, bao giờ cũng chỉ là những gì thoáng chốc phai tàn và khởi sự mất
đi hương vị! Ôi, bao giờ cũng là những sấm động qua nhanh và kiệt
tận và những cảm xúc muộn mằn vàng úa! Ôi bao giờ cũng là những
cánh chim rã rời lạc lối và giờ đây để bàn tay kia túm bắt - bàn tay
của chúng ta\
Chúng ta biến thành vĩnh cửu những gì không còn đủ sức sống và bay
lượn nữa, chỉ những gì đang mệt mỏi rã rời mà thói! Và chỉ có buổi
chiều vàng của các ngươi, hỡi những tư tưởng được ta viết ra và vẽ
xuống, chỉ có buổi chiều vàng của các ngươi là ta có sắc liệu để dựng
nên, có lẽ nhiều màu sắc lắm, và nhiều lắm những nhu hòa muôn sắc
và năm mươi những sắc vàng, nâu, xanh, đỏ: - thế nhưng sẽ không ai
đoán ra cho ta dung mạo của các ngươi trong buổi bình minh ló dạng,
294
các ngươi, những tia lửa tóe sáng và mầu nhiệm bất ngờ của niềm cô
độc trong ta, các ngươi, hỡi những tư tưởng thân thiết thâm trọng
và... tồi tệ của ta!
No comments:
Post a Comment