Sunday, May 26, 2013

Bên Thắng Cuộc - Giải Phóng: Chương 5 - 8

Chương 5: Chiến Tranh

Mặc dù từ giữa năm 1977, Pol Pot bắt đầu được nói tới như những bóng ma áo đen, đêm đêm cầm dao quắm lẻn sang giết chóc dọc biên giới Tây Nam, nhưng người dân Việt Nam vẫn sững sờ khi ngày 25-1-1978, tình trạng chiến tranh được Chính phủ công khai thừa nhận. Kể từ khi Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, đất nước trải qua ba mươi năm chiến tranh liên tiếp chiến tranh. Chưa kịp hưởng một ngày thực sự yên vui, trai tráng lại phải khoác lên vai cây súng, lần này là đánh nhau với những “người anh em” Cộng sản.

Biên giới Tây Nam

Ngày 25-1-1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Ngô Điền, vụ trưởng Vụ Thông tin Báo chí Bộ Ngoại Giao, chủ trì họp báo, cho biết nhà cầm quyền Campuchia đã huy động phần lớn lực lượng quân đội của họ đến đóng dọc biên giới, mở những cuộc tiến công quy mô tiểu đoàn, trung đoàn, rồi sư đoàn vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Cuộc họp báo của ông Ngô Điền diễn ra bốn ngày sau khi Khmer Đỏ kết thúc một cuộc tấn công kéo dài trên vùng biên giới Tây Nam. Từ ngày 11 đến 19-1-1978, ba trung đoàn Khmer Đỏ đã đánh vào vùng Tịnh Biên, Phú Cường ở bờ đông kênh Vĩnh Tế, sâu hơn 3km trong lãnh thổ Việt Nam. Ngày 18-1-1978, hai trung đoàn khác đã tiến công lấn chiếm khu vực Giang Thành, thuộc huyện Hà Tiên, Kiên Giang. Trong ngày 21-1-1978, ba tiểu đoàn Khmer Đỏ chiếm Rộc Xây, một khu vực ở sâu trong đất Việt Nam từ 10-12km. Ông Ngô Điền nói: “Nghiêm trọng là ngày 19-1-1978, lần đầu tiên họ (Pol Pot) dùng pháo tầm xa cỡ lớn đặt trên đất Campuchia bắn hàng trăm quả đạn vào thị xã Châu Đốc và vùng chung quanh thị xã Tây Ninh làm chết và bị thương nhiều người, phá hoại nhà cửa và tài sản của nhân dân Việt Nam”219. Ông Điền đặc biệt lưu ý: “Lực lượng vũ trang Campuchia không chỉ tàn sát người Việt Nam mà còn tàn sát một số người Campuchia dọc biên giới, mổ bụng, moi gan rồi quay phim chụp ảnh nhằm mục đích vu cáo Việt Nam”. Hai tù binh Khmer Đỏ do ông Ngô Điền đưa đến cuộc họp báo đã “thừa nhận những hành động của Pol Pot” và tiết lộ: “Ban chỉ huy trung đoàn nói với chúng tôi rằng, Việt Nam muốn xâm lược Campuchia, Việt Nam là kẻ thù số một”220. Khmer Đỏ đã khai chiến một ngày sau khi họ chiếm được Phnom Penh. Ngày 18-4-1975, ngay sau khi Khmer Đỏ chiếm được thành phố Ta Keo, Soeun, chỉ huy trung đoàn 120, đã cho triển khai quân dọc biên giới Việt Nam. Seoun, con rể của Ta Mok, tư lệnh quân đội Khmer Đỏ, tuyên bố: “Chúng ta phải đánh Việt Nam vì mười tám tỉnh của chúng ta, kể cả Prey Nokor (Sài Gòn) đang ở đó”. Ngày 19-4-1975, một người con rể khác của Ta Mok, Khe Muth, đã cho hải quân đổ bộ lên đảo nhỏ thuộc vịnh Thái Lan và tấn công đảo Phú Quốc. Quân đội Sài Gòn đã phải chiến đấu với quân của Khe Muth cho tới tận ngày 30- 4-1975. Ngày 1-5-1975, Khmer Đỏ quấy rối nhiều nơi dọc theo biên giới từ Tây Ninh đến Hà Tiên. Ngày 4-5-1975, một lực lượng đổ bộ lên đảo Phú Quốc, nhưng đã bị Quân đội Nhân dân Việt Nam, vừa thay thế Quân đội Sài Gòn, đánh đuổi. Ngày 10-5-1975, Pol Pot cho quân đổ bộ lên quần đảo Thổ Chu, triệt phá làng mạc, bắn giết và bắt đi 515 người. Ông Phạm Văn Trà, khi ấy là trung đoàn trưởng Trung đoàn U Minh, đơn vị trực tiếp đánh chiếm đảo Phú Quốc và Poulo Vai từ tay Khmer Đỏ, kể: “Hàng trăm ngư dân của ta sinh sống lâu nay ở trên đảo Phú Quốc, thấy tàu đổ quân Pol Pot lên bờ lại nghĩ là quân Giải phóng, không đề phòng và không kịp chạy, liền bị chúng bắt ngay lập tức. Chỉ những ai đi vắng mới thoát nạn. Lính Pol Pot tập trung tất cả thường dân vô tội, xả súng bắn chết rồi hất xác xuống biển”221. Ngày 2-6-1975, ông Nguyễn Văn Linh, đại diện cho Đảng Lao động Việt Nam tới Phnom Penh gặp Bí thư Pol Pot. Trong chiến tranh, hai người đã từng biết nhau và tại cuộc gặp này, Pol Pot nói: “Quân đội Campuchia do không nắm được địa lý nên đã để xảy ra va chạm đổ máu rất đau xót”222. Pol Pot nói vậy, nhưng mãi cho tới ngày 6-6-1975, khi Quân đội Việt Nam tiến đánh, bắt sống sáu trăm tù binh, Khmer Đỏ mới bỏ chạy và bị truy đuổi tới một hòn đảo mà phía Việt Nam gọi là Hòn Trọc, phía Campuchia gọi là Poulo Vai. Một tuần sau, Pol Pot, Nuon Chea và Ieng Sary viếng thăm Hà Nội, đề nghị Việt Nam ký một “hiệp ước hữu nghị, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau”. Do Pol Pot lồng vào vấn đề ranh giới trên vịnh Thái Lan nên lúc đó “hiệp ước” chưa được ký. Từ trung tuần tháng 5-1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng các đảo mà phía Việt Nam gọi là Hòn Ông, Hòn Bà, phía Campuchia gọi là Poulo Wai, được thành lập. Poulo Wai nằm cách thị xã Rạch Giá 220km và cách An Thới, Phú Quốc 113km về phía tây. Hòn Ông cao năm mươi mốt mét, Hòn Bà cao sáu mươi mốt mét, nằm song song, cách nhau ba cây số, diện tích tương đương nhau. Mỗi đảo có một bãi cát vàng; còn lại bốn bề của đảo đều là vách đá dựng đứng. Quân đội Sài Gòn từng xây trên đảo Hòn Bà một cây đèn biển và một sân bay dã chiến, chủ yếu cho trực thăng và máy bay trinh sát L.19 đậu. Trung đoàn U Minh được giao đánh chiếm Poulo Wai trong vòng hai đến ba ngày. Mặc dù được trang bị tàu há mồm và có sự hiệp đồng tác chiến của máy bay ném bom A.37, trực thăng vũ trang và máy bay trinh sát L.19, nhưng do lực lượng Pol Pot chiếm đảo sử dụng hỏa lực mạnh nên chiến sự kéo dài từ ngày 5-6-1975 cho đến sáng 14-6-1975, Trung đoàn U Minh mới làm chủ hoàn toàn hai đảo, bắt sống 782 lính Khmer Đỏ223. Ngày 2-8-1975, đích thân Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đến Phnom Penh, ký với Pol Pot một bản thông cáo chung. Phía Việt Nam đồng ý trả lại Poulo Wai cho Campuchia. Ngày 4-8-1975, khi Nuon Chea, phó bí thư Trung ương Đảng Campuchia, tới Hà Nội, ông ta được Nguyễn Văn Linh thông báo: “Lực lượng vũ trang Việt Nam không còn ở đảo Trọc nữa”. Nuôn Chea nói: “Vấn đề đảo Wai, thay mặt Đảng, chúng tôi xin cảm ơn sâu sắc”. Nhưng khi ông Linh thắc mắc về số phận của 515 người dân Thổ Chu bị Khmer Đỏ bắt đi hôm 10-5-1975, Nuôn Chea chỉ hứa: “Sẽ giải quyết”224. Từ đây, sẽ không ai còn được nghe nói tới số phận của 515 người dân Việt Nam này. Tháng 4-1976, hai đảng Campuchia và Việt Nam thỏa thuận sẽ có cuộc gặp vào tháng 6 năm đó giữa lãnh đạo cấp cao để bàn bạc giải quyết vấn đề biên giới, tạo tiền đề cho việc ký kết về mặt nhà nước một hiệp ước về biên giới225. Cuộc đám phán gần như không đạt được kết quả nào, nhưng ngày 23-5-1976 trong thư gửi Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, Nuon Chea vẫn dùng những lời lẽ thắm thiết: “Công việc của hai đoàn chúng ta trong thời gian qua đã đạt được thắng lợi lớn, củng cố và phát triển hơn nữa tình đoàn kết chiến đấu… Hai đoàn chúng ta đã hiểu biết, thông cảm với nhau và hết sức chân thành trên tinh thần là bạn chiến đấu là anh em cách mạng”226. Khmer Đỏ cho đến lúc bấy giờ vẫn được gọi là đồng chí, và Hà Nội đã không phân tích đúng mức các báo cáo của bộ đội biên phòng lúc bấy giờ. Theo ông Ngô Điền: “Năm 1978, tôi đưa đoàn nhà báo nước ngoài đến vùng biên giới An Giang và Tây Ninh, bản thân tôi sững sờ, ghê tởm trước hành động dã man của bọn diệt chủng. Về Hà Nội, tôi gặp anh Phạm Văn Xô, ủy viên Trung ương Đảng. Khi ở Trung ương Cục miền Nam anh thường được giao liên hệ với bọn Pol Pot – Ieng Sary. Tôi thuật lại cho anh những điều mắt thấy tai nghe về tội ác của Pol Pot. Cho đến lúc đó, anh Hai Xô vẫn còn cho rằng những tội ác đấy có thể do chủ trương của lãnh đạo địa phương”227. Chỉ trong năm tháng đầu tiên sau ngày Pol Pot cầm quyền, đã có hơn 150 nghìn người từ Campuchia chạy sang tị nạn tại các tỉnh biên giới Việt Nam; trừ những người gốc Việt, hàng chục nghìn người Hoa và người Khmer đã bị buộc quay trở lại. Số phận của họ, cũng như của hàng triệu người Campuchia khác, được tin là đã bị các Angkars đặt dưới dao, dưới búa228. Hàng trăm người thân của những người Khmer Issarak tập kết ra miền Bắc Việt Nam, trở về gia nhập Khmer Đỏ từ năm 1970, cũng đã bị giết khi đến Campuchia tìm chồng, cha, sau ngày “Phnom Penh giải phóng”.

Pol Pot

Cuối tháng 7-1976, lần đầu tiên một đoàn nhà báo nước ngoài được phép đến Campuchia. Đoàn do ông Trần Thanh Xuân, phó tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, dẫn đầu. Tuy vẫn rất lịch lãm, thân thiện và tỏ rõ “tình hữu nghị giữa hai dân tộc”, nhưng trong suốt quá trình làm việc, Pol Pot vẫn giữ tư thế nguyên thủ quốc gia với ông Xuân. Không ai biết, trong thời gian học đại học ở Paris, cũng như nhiều người Khmer cộng sản khác, Pol Pot thường xuyên đến nhà ông Xuân, có khi chỉ là để lục cơm nguội. Ở Paris, nhà ông Xuân được những người Khmer coi như một cơ sở của Đông Dương Cộng sản Đảng. Cử chỉ riêng tư duy nhất mà ông ta thể hiện là trước khi chia tay đoàn nhà báo, Pol Pot ghé tai ông Xuân hỏi nhỏ: “Chị có khỏe không anh?”. Thời thơ ấu, Pol Pot được mô tả là một cậu bé nghiêm túc học hành thay vì tham gia các trò chơi với bạn bè cùng lứa. Cha mẹ Pol Pot, một phú nông ở vùng Kongpong Thom, “có sáu con trâu và chín hecta ruộng”. Pol Pot – đứa con út của họ, sinh ngày 19-5-1925 với tên gọi là Saloth Sar – thay vì làm ruộng ở quê nhà, đã được đưa đến Phnom Penh, nơi chị gái đang là một cung nữ và anh trai đang làm việc trong ban nghi lễ Hoàng cung thời vua Monivong.

Sau một năm sống trong môi trường khép kín của Hoàng gia, cậu bé Saloth Sar bắt đầu sáu năm trong một trường dòng quý tộc. Năm mười sáu tuổi, Saloth Sar quay lại Kongpong Thom học trung học. Lúc ấy, Phnom Penh đang náo động bởi các phong trào đòi độc lập của giới thanh niên học sinh. Thành phố lớn nhất mà Saloth Sar đặt chân tới là Sài Gòn, chặng nghỉ trước khi xuống tàu sang Pháp sau khi nhận được học bổng học ngành vô tuyến điện. Năm 1949, tới Paris, Saloth Sar bắt đầu hoạt động cho dù được người anh trai làm việc ở Hoàng cung khuyên là không nên dính dáng tới chính trị. Tại đây, Saloth Sar gặp Yeng Sary, một sinh viên người Khmer sinh ra ở Việt Nam.

Trong đám cưới của Yeng Sary với Khieu Thirith – một sinh viên đang học về văn chương Anh tại Sorbonne – Saloth Sar đã gặp và sau đó cưới Khieu Ponnary, chị gái Thirith. Họ cùng tham gia phái bộ Campuchia trong Đảng Cộng sản Pháp. Trong thời gian đó, chàng sinh viên Saloth Sar vẫn được coi là một con người lịch lãm, khiêm tốn. Bạn bè có cảm giác cậu ta không giết nổi ngay cả một con gà. Tháng 1-1953, Saloth Sar trở về Campuchia vì bị cắt học bổng sau ba năm liên tiếp thi rớt. Những ngày đó, Sihanouk vừa ra lệnh thiết quân luật, trấn áp phong trào đòi độc lập đã trở nên cực đoan ở Phnom Penh. Sar theo anh trai, Saloth Chhay, bắt liên lạc với tổ chức cộng sản tại Campuchia. Sau khi xác minh đúng Saloth Sar đang là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, Phạm Văn Ba – một đảng viên người Việt Nam – đồng ý cho anh ta sinh hoạt trong Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer. Sau Đại hội lần thứ II – tháng 2-1951, Đảng Cộng sản Đông Dương đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam – những người cộng sản Lào, Khmer trong năm ấy đã được giúp đỡ để lập ra đảng riêng. Ngày 21-9-1951, Lê Đức Thọ và Nguyễn Thành Sơn triệu tập các đảng viên người Khmer có mặt ở Việt Bắc tổ chức Đại hội thành lập Đảng Nhân Dân Cách mạng Khmer; Anchar Mean, người được biết nhiều với cái tên Việt Nam là Sơn Ngọc Minh, được cử làm chủ tịch. Sơn Ngọc Minh là người sáng lập Phong trào Isarak năm 1948, một phong trào có ảnh hưởng trên địa bàn bốn tỉnh gần Việt Nam. Tuy nhiên, các tổ chức cộng sản trên đất Khmer lúc ấy vẫn được lãnh đạo bởi những đảng viên người Việt. Saloth Sar và một số đảng viên đã từng du học ở Pháp về được đưa vào sinh hoạt trong một chi bộ phần lớn là đảng viên Việt Nam và do một người Việt làm bí thư. Những người Khmer này thường chỉ được các đàn anh Việt Nam giao những công việc tạp vụ; điều này đã để lại cho họ nhiều ấn tượng không tốt. Người Pháp trao trả độc lập cho ông hoàng Sihanouk từ năm 1953. Chính phủ Hoàng gia đã ngăn cản việc Hiệp định Geneva dành cho những người Khmer Cộng sản có được một vùng “tập kết” như những người kháng chiến Issara của Lào. Hơn 1.000 đảng viên người Khmer được đưa ra miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, trong đó có Sơn Ngọc Minh. Những đảng viên ở lại hoạt động bí mật dưới quyền của Sieu Heng và Tou Samouth, chịu sự truy lùng gắt gao của chính quyền Sihanouk. Năm 1959, Sieu Heng đầu hàng, nhiều cơ sở Đảng bị đàn áp. Tháng 9-1960, Đảng Nhân dân Cách mạng Khmer tổ chức đại hội bầu Tou Samouth, một người có quan hệ tốt với miền Bắc Việt Nam, làm bí thư. Nhưng, năm 1962, Tou Samouth đã “mất tích” khi vừa từ Hà Nội về; Pol Pot, khi ấy đang là phó bí thư, đương nhiên trở thành bí thư. Thế hệ những người Khmer Cộng sản gốc nông dân và các Phật tử ủng hộ những người cộng sản Việt Nam bắt đầu được thay thế bởi những người đã từng du học ở Paris, nuôi tinh thần chống Việt Nam, cho dù khi ấy Khmer Đỏ phải dạt về vùng rừng núi giáp Việt Nam và phải dựa vào những người Việt Nam Cộng sản.

Đi dây

Norodom Sihanouk được coi là một “ông hoàng đi dây”. Tuy nhiên, trong nửa cuối thế kỷ 20, không chỉ có ông – vị vua của một một quốc gia thờ thần bốn mặt – các bên dính líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam đều có những mối quan hệ phức tạp với nhau. Trong khi trục lợi vai trò trung lập của Phnom Penh, tất cả đều để mặc cho Pol Pot phát triển nhanh phong trào Khmer Đỏ.

Kể từ khi người Việt mở mang bờ cõi xuống phía Nam, nhà Nguyễn bắt đầu nhìn thấy vị trí chiến lược của Lào và Campuchia đối với an ninh quốc gia. Hoàng đế Minh Mạng đã từng coi Campuchia là “phên dậu” trong thế chống lại quân Xiêm. Người Pháp cũng đã không dừng tham vọng thuộc địa của họ ở Việt Nam mà đưa quân ngược dòng Mekong, đến Lào, Campuchia, rồi gộp chung ba quốc gia khác biệt về văn hóa thành một xứ gọi là Đông Dương. Trong chiến tranh chống Pháp, Đại tướng Võ Nguyên Giáp coi “Đông Dương là một đơn vị chiến lược, là một chiến trường”. Khi miền Bắc xác định, “bạo lực” là “đường lối của cách mạng miền Nam”, một con đường men theo lãnh thổ Lào, Campuchia – thường được gọi là đường mòn Hồ Chí Minh – bắt đầu được thiết lập. Người Mỹ biết rất rõ miền Bắc Việt Nam sử dụng các căn cứ ở Hạ Lào và ở Campuchia như một bàn đạp cho các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam. Khi chưa chính thức vào Nhà Trắng, Nixon đã yêu cầu “báo cáo chính xác về những gì kẻ địch có ở Campuchia”, đồng thời đặt ra mục tiêu “phá hủy các căn cứ được xây dựng ở đó”. Người Mỹ cũng biết khá chính xác việc miền Bắc sử dụng cảng Sihanoukville để nhận vũ khí từ Liên Xô. Trong thập niên 1960, Sihanouk đã khá thẳng tay với Cộng sản, Chính phủ Hoàng gia tuyên án tử hình vắng mặt Saloth Sar; năm 1967, ba bộ trưởng cánh tả – Khieu Samphan, Hou Youn, Hu Nim – đã phải bỏ vào rừng với Khmer Đỏ. Nhưng Sihanouk lại là “bạn thân” với Bắc Kinh và Hà Nội. Ông làm ngơ cho miền Bắc Việt Nam lập căn cứ trên lãnh thổ của mình. Mối quan hệ khăng khít của Sihanouk với Hà Nội, Bắc Kinh và các quốc gia trong Phong trào không liên kết đã gây lo ngại cho Việt Nam Cộng hòa. Tổng thống Ngô Đình Diệm được nói là đã ủng hộ lãnh tụ đối lập Sam Sary và giúp đỡ cuộc nổi loạn của Tướng Dap Chuon. Đại sứ Việt Nam Cộng hòa Ngô Trọng Hiếu từng bị cáo buộc đứng sau lưng một vụ mưu sát Sihanouk bằng bom. Tháng 8-1963, Sihanouk cắt quan hệ ngoại giao với miền Nam Việt Nam và sau đó từ chối viện trợ kinh tế, quân sự của Mỹ. Tháng 5-1965, Sihanouk cắt quan hệ với Mỹ và sang tháng 6-1965, ông công khai ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Miền Bắc Việt Nam đánh giá cao vai trò của Hoàng thân Sihanouk tới mức, cuối năm 1964, khi Pol Pot theo đường mòn Hồ Chí Minh ra Hà Nội, ông ta đã được đề nghị ủng hộ chính sách “chống ngoại bang” của ông Hoàng. Pol Pot đã ghi điều này vào “sổ đen” như một bằng chứng các đồng chí Việt Nam đã không hết lòng với ông ta. Mục tiêu của Pol Pot không phải là chống Mỹ mà là cầm quyền, nhưng làm sao có thể cầm quyền khi Chính phủ Hoàng gia vững mạnh. Từ Hà Nội, Pol Pot đến Bắc Kinh và ở lại đây năm tháng. Thời gian đó, Cách mạng Văn hóa đang ngự trị đất nước Trung Hoa. Pol Pot chia sẻ nhiều mục tiêu của cuộc cách mạng này và nhận ra sự khác biệt trong con đường cách mạng của Pol Pot và Hà Nội. Từ đầu năm 1968, Khmer Đỏ bắt đầu tiến hành những hoạt động du kích lẻ tẻ, bắt cóc, phục kích nhắm vào các quan chức trong Chính quyền Sihanouk. Một số cuộc nổi dậy do Pol Pot tổ chức ở nông thôn bị Sihanouk khủng bố tàn khốc. Du kích Khmer Đỏ xin Việt Nam vũ khí để tự vệ, nhưng phía Việt Nam không thể đáp ứng vì khi ấy miền Bắc đang cần Sihanouk. Sihanouk, tất nhiên, phức tạp hơn rất nhiều so với những gì mà các bên đánh giá. Một mặt, ông làm ngơ cho miền Bắc lập các căn cứ trên đất Campuchia; mặt khác, ngày 10-1-1968, khi gặp Chester Bowles, phái viên của Tổng thống Mỹ Johnson, Sihanouk nói: “Chúng tôi không muốn có người Việt Nam nào ở Campuchia. Chúng tôi sẽ rất vui mừng nếu các ngài có thể giải quyết được vấn đề này. Chúng tôi không phản đối việc truy tìm ráo riết ở những vùng bỏ hoang. Các ngài sẽ giải phóng chúng tôi khỏi Việt Cộng”229. Nhà Trắng đã “dịch” câu nói này theo nghĩa “Sihanouk mời Mỹ tấn công” vào những căn cứ ấy. Hai tháng sau đợt oanh kích bí mật của Mỹ, ngày 13-5-1969, trong một cuộc họp báo, Sihanouk nói: “Không có ai bị mất nhà cửa hay thiệt mạng trong đợt ném bom này, không có người Campuchia nào cả”230. Năm 1969, Sihanouk tìm cách nối lại quan hệ ngoại giao với Washington, nhưng trước khi việc thành, năm 1970, ông bị Lonnol đảo chính.

Ngày 7-1-1970, Sihanouk cùng bà hoàng Monique và tùy tùng gồm mười một người rời thủ đô Phnom Penh. Trong khi ông đang nằm “chữa bệnh béo phì, bệnh máu, và chứng tiểu tiện ra Anbumin” ở châu Âu, tại Phnom Penh, các tướng tá và chính trị gia – những người năm 1963 đã phản đối việc ông từ chối viện trợ kinh tế của Mỹ và sau đó, năm 1965, cắt đứt quan hệ ngoại giao – bắt đầu buộc tội ông bất lực khi để quân đội Bắc Việt Nam “tràn ngập ở vùng biên giới”. Ngày 8-3-1970, tại Svay Rieng, một cuộc biểu tình chống Việt Nam nổ ra. Ngày 11-3-1970, khoảng 20.000 thanh niên Campuchia đã cướp phá tòa đại sứ của Bắc Việt Nam tại Phnom Penh. Lẽ ra, ngày 13-3-1970, Sihanouk phải về Phnom Penh để kiểm soát tình hình, nhưng ông vẫn đến thủ đô Moscow (Liên Xô cũ) theo kế hoạch. Chủ tịch Xô-Viết Tối cao Nikolai Podgorny đã khuyên ông về nước ngay, nhưng Sihanouk đã ở lại đó năm ngày. Ngày 18-3-1970, Quốc hội Campuchia phế truất chức quốc trưởng của ông. Sihanouk choáng váng khi Thủ tướng Liên Xô Kosygin cho hay tin trên đường tiễn ông ra sân bay. Không ai trong đoàn tùy tùng dám cả gan báo tin này cho ông cả. Tất nhiên, miền Bắc Việt Nam có bị tổn thất sau cuộc đảo chính. Ông Nguyễn Nhật Hồng, người thanh toán các chi phí bí mật để vận chuyển vũ khí qua ngả Campuchia, xác nhận điều Kissinger viết trong cuốn Ending the Vietnam War: kể từ sau năm 1970, cảng Sihanoukville không còn được miền Bắc dùng để cung cấp vũ khí cho miền Nam nữa. Ông Hồng kể: “Khi Trung Quố c và Liên Xô xung đột với nhau, đó ng cử a biên giớ i, hàng hóa từ Liên Xô không thể chuyển bằng tàu liên vận qua biên giới Trung Quốc, miền Bắc phải thuê tàu viễn dương chở vũ khí viện trợ của Liên Xô về cảng Sihanoukville. Việc này được cả Sihanouk và Lonnol đồng ý”. Đổi lại, một khoản “lót tay” bằng 20% trị giá hàng nhập cảng sẽ được chi cho hai người. Phòng Thanh toán Đặc biệt B29 mở cho Sihanouk và Lonnol mỗi người một tài khoản bí mật ở Thụy Sỹ231. Trong những năm 1966-1969, lượng hàng hóa mà miền Bắc Việt Nam chuyển qua cảng Sihanoukville gồm: 20.478 tấn vũ khí, 1.284 tấ n quân trang, 731 tấ n thuố c men, 65.810 tấ n gaọ , 5.000 tấ n muố i, và 4.115 tấ n thực phẩ m hôp̣ và khô.

Theo ông Nguyễn Nhật Hồng: “Từ năm 1969, Lonnol yêu cầu khoản 10% của ông phải được trả bằng vũ khí. Tôi nghĩ, các nhà phân tích tình báo của ta có thể đoán biết được ý đồ đảo chính của Lonnol khi ông ta lấy súng thay vì lấy tiền”. Theo ông Hồng, “khoản thanh toán đặc biệt chi lót đường” này được bản “Báo cáo Tổng kết công tác ngoại hối đặc biệt” do ông Mai Hữu Ích ký ngày 25-11-1979, ghi là “chi phı́ vâṇ tải tuyệt mật”, với tổng số tiền lên tới 36.642.653 USD.

Lịch sử dường như đã xếp đặt để ông Hoàng Sihanouk kết thúc một chặng đường chính trị của mình tại Bắc Kinh, nơi vẫn tổ chức đón tiếp ông theo nghi thức của một ông hoàng đang trị vì. Thủ tướng Chu Ân Lai đã ra tận cầu thang máy bay ôm hôn, và phía sau ông, “gần như toàn bộ ngoại giao đoàn” ở Bắc Kinh có mặt. Sau khi lên chiếc xe cắm cờ cả của Campuchia và Trung Hoa, Chu Ân Lai nói với Sihanouk: “Đêm qua, tôi đã cho tất cả các trưởng đoàn ngoại giao biết rằng Chính phủ Trung Quốc vẫn coi ngài là quốc trưởng hợp pháp duy nhất của Campuchia. Tôi cũng cho họ biết là tôi rất mong muốn tất cả các đại sứ có mặt để đón ngài tại sân bay”232. Sự tinh tế của người Trung Hoa không dừng ở đấy. Chu Ân Lai đã tặng Sihanouk một dinh thự vào loại đẹp nhất Bắc Kinh. Đồng minh thân cận nhất của Bắc Kinh là Bắc Triều Tiên, cũng chỉ trong vài tháng, xây cho ông Hoàng lưu vong một dinh thự kiểu cung điện nhìn ra mặt hồ. Tại đây, Sihanouk vẫn là một ông vua. Đích thân Kim Nhật Thành thường xuyên mời Sihanouk và thân quyến thịt nướng, trứng cá và rượu vang Pháp. Những phim phương Tây mới nhất mà cha con ông Kim nhập về sau khi xem xong đều chuyển cho Sihanouk mượn. Năm 1991, Sihanouk đã đưa đội sỹ quan cận vệ người Bắc Triều Tiên do Kim Nhật Thành “tặng” về Phnom Penh sử dụng. Trong cuộc “hội đàm” ngày 19-3-1970, Chu chuyển lời của Mao Trạch Đông nhắn với Sihanouk: “Nếu Hoàng thân không chấp nhận việc đã rồi và quyết định lãnh đạo một phong trào kháng chiến chống Mỹ giải phóng Campuchia thì Trung Quốc sẽ ủng hộ và sẵn sàng trợ giúp những gì có thể”233. Tuy nhiên, cả Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông khi ấy chưa ai nghĩ đến khả năng bắt tay giữa Pol Pot và Sihanouk. Ngày 21-3-1970, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng bí mật tới Bắc Kinh, cả hai thuyết phục Chu Ân Lai và Pol Pot cùng hợp tác. Hai hôm sau, ngày 23-3-1970, Sihanouk đưa ra “tuyên bố năm điểm”, bắt tay với Khmer Đỏ, những người đã từng bị chính ông ta “xử tử hình vắng mặt”. Sihanouk cũng tuyên bố sẽ thành lập “quân đội giải phóng” và “mặt trận thống nhất dân tộc”, ông đồng thời ca ngợi cuộc đấu tranh chống Mỹ của những người Cộng sản Việt Nam, Lào và Campuchia. Tại Bắc Kinh, “Chính phủ Sihanouk” được cung cấp vật chất và cá nhân ông được chăm sóc như một nguyên thủ quốc gia234. Ngày 24-4-1970, Sihanouk được đưa trở về vùng “ba biên giới” để tham gia Hội thảo Thượng đỉnh về các Dân tộc Đông Dương cùng với Thái tử Souvanouvon của Pathet Lào, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam, và Phạm Văn Đồng. Khi trở lại Bắc Kinh vào ngày 27-4-1970, Sihanouk ra một tuyên bố chung cam kết “hỗ trợ có đi có lại” trong “cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung: Đế quốc Mỹ”. Trước đó, lực lượng miền Bắc Việt Nam tại Campuchia đã tổ chức rải truyền đơn và phát lời kêu gọi của Sihanouk, tổ chức tuyển dụng và huấn luyện giúp Sihanouk một lực lượng gọi là Khmer Rumdo.

Kissinger cáo buộc miền Bắc Việt Nam nuôi dưỡng Khmer Đỏ và giúp đỡ để Pol Pot chiếm được chính quyền. Kissinger cho rằng: “Nếu có người nào đó gây ra cuộc chiến tranh ở Campuchia và biến sự diệt chủng của Khmer Đỏ thành hiện thực thì đó chính là Hà Nội”235. Tuy nhiên, bom đạn Mỹ đã đóng một vai trò quan trọng236.

Bằng những chiến dịch tuyên truyền, vừa hù dọa, vừa kích động lòng căm thù Mỹ và chính quyền Lonnol, Khmer Đỏ đã tuyển được hàng trăm nghìn thanh niên tham gia lực lượng của họ237. Năm 1974, mọi thanh niên từ mười sáu tuổi trở lên bị buộc gia nhập lực lượng Khmer Đỏ, những người từ chối có thể bị Khmer Đỏ bắn chết. Những đứa trẻ bị buộc phải cầm súng trong giai đoạn này đã trở nên vô cùng hung hãn. Khi đàm phán Hiệp định Paris, Lê Đức Thọ đã đòi loại bỏ các cơ cấu phi cộng sản ở Campuchia. Khi ấy, ông Thọ và các đồng chí của ông ở Hà Nội không thể nào ngờ, chính “ông anh” Trung Cộng không hề mong muốn một chiến thắng về ý thức hệ ở Campuchia. Tháng 6-1972, Chu Ân Lai nói với Kissinger: “Trung Quốc muốn ở Lào và Campuchia có một kết cục trong đó ‘các nhân tố tư bản’ có thể tham gia trong chính phủ và giới cầm quyền truyền thống có thể là người đứng đầu quốc gia”238. Chu nói thẳng với Kissinger: “Chúng tôi có thể tin rằng Thái tử Sihanouk là người đứng đầu nhà nước ở Campuchia và người đứng đầu nhà nước ở Lào sẽ là nhà vua”239. Tháng 2-1973, khi Kissinger thăm Bắc Kinh sau chuyến đi tới Hà Nội, ông nhận ra: “Các lãnh đạo Bắc Kinh bắt đầu hiểu rằng việc Hà Nội chi phối Đông Dương có thể là một thắng lợi về ý thức hệ nhưng là một thất bại về địa chính trị đối với Trung Quốc”240. Campuchia càng ngày càng trở thành một ván bài phức tạp, có quá nhiều người chơi mà không ai tin tưởng ai. Trung Quốc biết Khmer Đỏ là lực lượng chính nhưng cũng sợ Khmer Đỏ mạnh tới mức làm hỏng con bài Sihanouk. Thật khó để định lượng trong chính sách thù địch với Việt Nam của Pol Pot có bao nhiêu lý do từ việc Hà Nội sốt sắng ủng hộ Hoàng thân Sihanouk. Tháng 4- 1970, khi Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đề nghị thiết lập một lực lượng quân sự phối hợp giữa Khmer Đỏ và lực lượng ủng hộ Hoàng gia, Pol Pot lúc ấy đang ghé qua Hà Nội, đã thẳng thừng từ chối. “Con bài” Sihanouk không chỉ làm mất lòng Pol Pot mà còn khiến cho những người Khmer tập kết chạnh lòng. Kể từ khi lưu vong, năm nào Sihanouk cũng sang Việt Nam ăn Tết. Để làm đẹp lòng ông Hoàng, những khi Sihanouk đến Hà Nội, những người Khmer Issarak, cựu thù của ông, sống ở Thủ đô đều được “mời” đi các tỉnh khác. Theo ông Ngô Điền: “Cố Thủ tướng Chăn Si, một cán bộ tập kết gắn bó với Việt Nam, khi tâm sự về điều này đã rơm rớm nước mắt, trách ta coi nhẹ những người cộng sản Campuchia mà đề cao quá mức vua chúa”241.

Năm 1973, Việt Nam đã đưa Sihanouk trở về “vùng giải phóng”, nơi về danh nghĩa ông là người đứng đầu nhưng trên thực tế đang do Khmer Đỏ nắm. Sihanouk đã nhiều lần đề nghị Chu Ân Lai thu xếp chuyến đi này nhưng Chu Ân Lai từ chối. Sau Hiệp định Paris, Sihanouk gặp trực tiếp Yeng Sary, đại diện của Khmer Đỏ tại Bắc Kinh, nhưng cũng bị Yeng Sary lảng tránh. Sau đó, Sihanouk đã cầu cứu Hà Nội và được Thủ tướng Phạm Văn Đồng sốt sắng nhận lời, ông đã nhờ Bắc Kinh tác động thêm để Pol Pot chấp nhận chuyến đi của Sihanouk242. Khmer Đỏ đã khai thác được triệt để uy tín của Sihanouk trong chuyến đi này để gây thanh thế đối ngoại, nhưng về đối nội, Pol Pot không cho phát bản tuyên bố của ông. Đặc biệt, Khmer Đỏ đã tranh thủ chuyến đi để nói xấu Việt Nam với Sihanouk243.

Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ

Người Mỹ tin rằng miền Bắc Việt Nam đã trang bị pháo binh hạng nặng và trợ giúp công binh cho Khmer Đỏ trong chiến dịch cuối cùng tiến vào Phnom Penh. Tướng Giáp xác nhận: “Lúc này, quân và dân Campuchia đã từng bước phá vỡ sức đề kháng của quân đội Lonnol ở ngoại vi thủ đô Phnom Penh. Được ta trợ giúp đạn súng lớn, bạn đã nã pháo vào trung tâm thành phố. Ngày 12-4, Mỹ tổ chức cuộc hành quân mang tên Diều Hâu, di tản cố vấn và binh lính Mỹ ra khỏi thủ đô bằng đường không. Ngày 17-4, Phnom Penh được giải phóng”244. Đêm trước khi được Khmer Đỏ “giải phóng”, Phnom Penh gần như không ngủ, phần vì cả thành phố chìm trong tiếng súng, phần vì người dân chờ đợi một biến cố mới cho dù không ai lúc ấy có thể tưởng tượng được những điều mà Pol Pot sẽ làm.

Vào lúc 7 giờ 30 sáng 17-4-1975, Chính quyền Lonnol ra lệnh cho quân đội đầu hàng. Cờ trắng được nhìn thấy ở khắp nơi, trong khi hàng ngàn người dân, chủ yếu là thanh niên, học sinh, đã xuống đường chào đón Khmer Đỏ với niềm tin đã tới ngày hòa bình. Thoạt đầu, người dân tỏ ra yên tâm khi thấy những người lính Khmer Đỏ chỉ bắn chỉ thiên nhằm ngăn chặn nạn hôi của và vãn hồi trật tự. Khoảng 1 giờ trưa, khi lực lượng Khmer Đỏ từ Quân khu Bắc tiến về chiếm Đài Phát thanh Quốc gia, ra lệnh cho tất cả các bộ trưởng, tướng lĩnh, các viên chức cao cấp của Chính quyền Lonnol ra trình diện vào lúc 2 giờ chiều, sách báo “của bọn đế quốc” bắt đầu bị ném ra đường và đốt. Hoàng thân Sirik Matak và Thủ tướng Long Boret từ chối di tản theo đề nghị của Đại sứ Mỹ. Sirik Matak sau đó bị bắt khi tị nạn trong tòa Đại sứ Pháp còn Long Boret thì gọi điện thoại chỉ đường cho Khmer Đỏ tới tận nhà. Cả hai đều bị giết. Sáng sớm hôm sau, 18-4-1975, số phận của những người ra trình diện được định đoạt: các tướng lĩnh của Lonnol bị đưa đi hành quyết tại sân vận động Olympic, các quan chức dân sự bị giết ở Hội quán Thể thao. Hai anh em nhà Lonnol, Chủ tịch Quốc hội Ung Bun Hor, nhà sư Saundech Saugh, các tướng lĩnh và nhiều bộ trưởng cũng bị giết. Chính quyền ở các địa phương cũng bị đối xử tương tự. Ngày 23-4- 1975, ở Battambang, các sỹ quan được Khmer Đỏ đưa lên sáu chiếc xe nói là đi đón Sihanouk nhưng kết quả là họ đã bị hành quyết ở một nơi hoang vắng.

Nhưng phải đến khi Pol Pot trục xuất toàn bộ dân chúng ra khỏi tất cả các đô thị trên cả nước thì người dân mới biết rõ trong số các nạn nhân của chế độ gồm có cả mình. Nếu như trong ngày 18-4-1975, dân chúng ở Phnom Penh còn có thể hỏi han khi nghe lệnh sơ tán thì ngày hôm sau, họ phải đối diện với những tên lính mười bốn, mười lăm tuổi lăm lăm súng trong tay: hoặc ra khỏi nhà, hoặc ăn lựu đạn.

Không chỉ có cảnh cáo, những người phản đối đã bị bắn chết trước mắt người thân. Người dân chỉ kịp nhặt nhạnh vài thứ đồ đạc, nhà cửa bị buộc phải bỏ lại đằng sau. Chỉ vài ngày sau, họ sẽ nhận ra tài sản không đáng giá so với những gì sẽ mất. Nhiều gia đình phải li tán, vợ chồng, con cái bị xé, mỗi người bị đưa tới một nơi. Họ đã phải đi bộ nhiều ngày, có người phải đi bộ năm, sáu tuần liên tục, về các vùng mà Pol Pot dự định xây dựng các hợp tác xã bậc cao. Những người ốm yếu bị vất lại. Người dân bắt đầu nhìn thấy tương lai của mình qua những xác chết nằm la liệt trên đường. Khoảng 0,53% số dân Phnom Penh đã bị chết trên đường đi245. Tính cả số các quan chức bị hành quyết và người dân bị bắn do không chịu chấp hành, hơn hai mươi nghìn người đã bị giết trong những ngày đầu “Phnom Penh giải phóng”. Pol Pot nhận được “tin chiến thắng” khi đang ở Oudong với Khieu Samphan. Khieu Samphan nhớ lại: “Khi ấy, chúng tôi tránh thể hiện cảm xúc. Không có tiếng súng chào mừng hay điều gì tương tự. Tôi không chúc mừng ông ta (Pol Pot). Ông ta nói đơn giản đây là một chiến thắng vĩ đại mà nhân dân Campuchia tự giành được”246. Pol Pot lặng lẽ về Phnom Penh vào ngày 24-4-1975, sau khi ra lệnh đưa toàn bộ người dân thành phố về các vùng nông thôn. Ngày 17-4-1975, Yeng Sary đang ở Quảng Trị. Thay vì theo đường Hồ Chí Minh đi Rattanakiri, Yeng Sary bay ngược trở lại Bắc Kinh để ngày 24-4-1975, được đưa trở về Phnom Penh bằng một chiếc Boeing 707. Sau ba ngày đại hội đặc biệt toàn quốc, khi được giao phát ngôn cho Chính quyền, Khieu Samphan cho rằng chính “máu xương của nhân dân” đã viết nên “trang sử chói lòa của dân tộc”247. Pol Pot, với một gương mặt được mô tả là tử tế, nụ cười luôn thường trực trên môi và rất kiệm lời, bắt đầu ban hành chính sách tám điểm: di tản toàn bộ dân chúng ra khỏi tất cả các thành phố; thủ tiêu tất cả chợ búa; ngưng lưu hành tiền tệ; buộc các nhà sư phải lao động tại các nông trang; hành hình các nhà lãnh đạo Lonnol; thành lập các hợp tác xã cao cấp trên toàn quốc, áp dụng chế độ nhà ăn tập thể; trục xuất toàn bộ người Việt Nam; triển khai quân dọc biên giới, đặc biệt là biên giới Việt Nam248. Trong số ra tháng 8-1975, Tung Padevat, tờ báo nội bộ của Khmer Đỏ, giải thích việc đưa hết dân chúng ra khỏi Phnom Penh là nhằm xóa sở hữu tư, bắt tư sản phải lao động chân tay như những người nông dân. Bài báo viết: “Sự thật là, chúng ta mạnh hơn và có ảnh hưởng hơn khu vực tư nhân khi chúng ta ở vùng nông thôn”. Việc bãi bỏ sử dụng đồng tiền, theo bài báo này, không chỉ để đánh giai cấp tư sản, mà: “Tiền bạc sẽ dẫn đến sở hữu tư… Nếu chúng ta sử dụng tiền, nó sẽ rời vào tay tư nhân… Nếu đồng tiền rơi vào tay kẻ xấu hoặc kẻ thù, chúng sẽ dùng tiền để hối lộ, làm tha hóa cán bộ… Rồi, trong một năm, mười năm, hai mươi năm nữa, cái xã hội trong sáng của Campuchia sẽ trở thành Việt Nam”249. Khát vọng vượt các “đảng anh em” trong xây dựng chủ nghĩa cộng sản, tái lập đế chế Angkor, đã biến Pol Pot từ một kẻ trói gà không chặt trở thành một tên giết người điên rồ. Trong một tài liệu mật của Trung ương phát hành ngày 19-9-1975, nghĩa là sau vừa đúng năm tháng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Khmer Đỏ khẳng định: “So sánh với cách mạng ở Trung Quốc, Bắc Hàn và Việt Nam, chúng ta đang đi trước họ ba mươi năm”250. Hàng triệu người bị buộc phải lao động nặng nhọc 12- 15 giờ mỗi ngày, trong khi ăn không đủ no vì gạo phải để dành cho chỉ tiêu xuất khẩu hai triệu tấn trong năm 1977.

Trong tuyên bố của Khieu Samphan đưa ra vào ngày 27-4-1975, ngay sau Đại hội Toàn quốc Đặc biệt, Sihanouk vẫn được coi là “một nhà yêu nước vĩ đại” và vẫn được giữ vị trí đứng đầu nhà nước. Trong thời gian ấy, Sihanouk đang ở Bình Nhưỡng, nơi Kim Il Sung xây cho ông một tòa lâu đài nhìn ra mặt hồ Chhang Sou On. Tháng 9-1975, Pol Pot gửi Phó Thủ tướng Khieu Samphan và Bộ trưởng Thông tin Yeng Thirith, vợ Yeng Sary, tới Bình Nhưỡng mời Sihanouk trở lại Phnom Penh. Khieu Samphan nói với ông: “Chúng ta đã có điều kiện để trở thành 100% cộng sản. Chúng ta có thể vượt qua thậm chí người anh Trung Hoa. Với bước đại nhảy vọt, chúng ta có thể tiến đến mục tiêu chủ nghĩa cộng sản bỏ qua giai đoạn chủ nghĩa xã hội”251. Họ cùng đi tàu trở lại Bắc Kinh, ở đó, Khieu Samphan tháp tùng Sihanouk và bà hoàng Monique đến thăm Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Mao lúc ấy tám mươi hai tuổi “gần như trần truồng trên giường bệnh”252 nhưng có vẻ như ông vẫn hình dung được những gì học trò ông đang làm ở Campuchia. Mao chỉ thị cho đại diện Khmer Đỏ: “Đừng đưa Hoàng thân Sihanouk và bà Hoàng tới công xã”.

Những lời của Mao đã có giá trị cứu mạng Sihanouk. Chu Ân Lai, khi ấy cũng đang ở trên giường bệnh ung thư giai đoạn cuối, nói với Khieu Samphan và Yeng Thirith với giọng mà Sihanouk mô tả là khẩn nài: “Xin hãy đi từng bước lên chủ nghĩa cộng sản. Đừng đi theo mô hình đại nhảy vọt sai lầm của chúng tôi”. Sihanouk nhớ lại là cả Khieu Samphan và Thirith đều “cười ranh mãnh”. Khmer Đỏ không cho rằng họ có học tập ai đó, thậm chí cả Mao Trạch Đông; họ muốn xây dựng một xã hội chưa từng có trong lịch sử. Ngày 9-9-1975, Sihanouk rời Bắc Kinh trong cờ hoa, Đặng Tiểu Bình gọi đây là “sự trở về trong vinh quang”. Sự thật là Pol Pot chỉ cần uy tín của Sihanouk để lấy lại chiếc ghế của Campuchia tại Liên Hiệp Quốc. Ở Phnom Penh, khi ông Hoàng đề nghị Pol Pot cho gặp một người chú già và một người dì của ông bị đưa đi công xã từ hồi tháng 4-1975, ông đã bị từ chối. Đại diện Pol Pot nói với Sihanouk là ông sẽ được gặp họ sau chuyến đi đến Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Trong suốt chuyến đi New York, Yeng Sary luôn cập kè bên ông. Khi họ chuyển tiếp tại Paris, không ai trong số những người bạn cũ của Sihanouk có thể lọt vào nơi ở của ông để được gặp ông trực tiếp. Sihanouk thừa nhận là khi ấy ông đã nhận ra không khí chết chóc ở Campuchia, nhưng vì “trách nhiệm và niềm kiêu hãnh” cá nhân, tháng 12-1975, Sihanouk cùng bà hoàng Monique, mẹ vợ và hai mươi hai người con, cháu của ông đã trở lại Phnom Penh. Kết cục là trong hơn ba năm sống với Khmer Đỏ, Sihanouk đã trở thành một tù nhân; năm người con và mười ba người cháu của ông đã bị Angkar đưa đến các công xã để rồi không bao giờ nghe nhắc đến tên họ nữa. Sihanouk khi mới trở về vẫn là quốc trưởng của Chính phủ Hoàng gia được lập ra ở Phnom Penh, nhưng ông và Thủ tướng Pen Nouth, người trung thành của ông, chỉ có hư danh. Ngày 20-3-1976, Quốc hội Campuchia được bầu với thành phần chủ yếu là các bí thư quân khu và chi khu của Khmer Đỏ. Theo hiến pháp mới, Campuchia sẽ có một hội đồng chủ tịch nhà nước do Quốc hội bầu lên. Sihanouk phải đệ đơn từ chức để cho Khieu Samphan làm chủ tịch. Hai phó chủ tịch thứ nhất và thứ hai là hai vị tư lệnh quân khu: So Phim, Quân khu Đông và Nhim Ros, Quân khu Tây Bắc. Ngày 12-4-1976, Pol Pot bắt đầu xuất hiện công khai với vai trò thủ tướng, Yeng Sary làm bộ trưởng Ngoại giao, Son Sen làm bộ trưởng Quốc phòng. Ngày 22-7-1975, trước 3000 đại biểu của các đơn vị quân đội, Pol Pot nói: “Trên toàn thế giới, trong lịch sử đấu tranh cách mạng và kể từ khi nước Mỹ ra đời, không ai, không có quốc gia nào, lại có thể đánh đuổi đế quốc đến tên cuối cùng và giành thắng lợi hoàn toàn”253 như Khmer Đỏ; còn Pol Pot cho rằng: “Đây là một thắng lợi mẫu mực cho nhân dân thế giới”.

“Kẻ Thù Lịch Sử”

Từ ảo tưởng này, tại lớp chính trị tổ chức cho 700 cán bộ chủ chốt của Đảng trong hai tháng cuối năm 1975, Nuon Chea cho rằng Campuchia bấy giờ vừa là công trường lao động, vừa là chiến trường chống Việt Nam. Chính sách thù địch với Việt Nam mà Khmer Đỏ tiến hành không chỉ bằng định kiến lịch sử được dồn nén qua nhiều thế kỷ, mà còn bằng cả mối quan hệ ngắn ngủi giữa những người cộng sản khi cùng sinh hoạt trong Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được Trần Phú, theo lệnh Quốc tế Cộng sản, thay bằng một đảng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Tuy là Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng ngay cả những phái bộ ở Lào hay Campuchia đều có lượng đảng viên người Việt Nam chiếm số đông. Từ năm 1935, “Liên bang Đông Dương” bắt đầu được những người theo đường lối Quốc tế Cộng sản cực đoan tính tới. Tháng 7-1946, Hồ Chí Minh tới Fonteinebleau. Khi những người Việt Nam trong Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu những đảng viên người Khmer với phái đoàn Việt Nam và đề nghị họ “đi gặp Bác Hồ”, Thiounn, người về sau là một bộ trưởng của Pol Pot, nói: “Chúng tôi trả lời, ông ta không phải là bác của chúng tôi. Họ lại bảo, chúng ta là anh em, các bạn nên thể hiện sự tôn trọng, nhưng chúng tôi cũng từ chối” 254. Từ năm 1970, nhiều đơn vị Việt Nam đóng quân tại các căn cứ nằm dọc theo biên giới Campuchia đã bị tấn công mà thủ phạm về sau được xác định là lực lượng của Khmer Đỏ. Không chỉ hướng sự thù địch vào người Việt, từ năm 1973, Khmer Đỏ bắt đầu chống lại cả Khmer Rumdo, lực lượng ôn hòa, ủng hộ Sihanouk và từng được Việt Nam huấn luyện. Ngày 4-11-1973, sau khi bắt cóc ba nhóm Khmer Rumdo, lực lượng Khmer Đỏ thuộc Khu 25 ở Kandal, gặp những người Khmer Rumdo ở Prey Veng, yêu cầu Khmer Rumdo hủy bỏ chủ trương hợp tác với các lực lượng miền Bắc Việt Nam. Những người Khmer Rumdo từ chối. Cuộc tranh cãi đã dẫn đến một cuộc đọ súng và với sự tham gia của các đơn vị Việt Nam, Khmer Rumdo đã tiêu diệt bốn mươi hai lính Khmer Đỏ, đẩy lui phần còn lại. Từ đó, các cuộc đụng độ giữa hai lực lượng gần như thường xuyên xảy ra. Mấy tháng trước đó, khi di chuyển từ Khu IX lên Trung ương Cục, ông Võ Hồng Thắm, thư ký riêng của ông Kiệt, đã bị Khmer Đỏ giết khi vừa chạy xuồng qua biên giới Campuchia đoạn tiếp giáp với Hồng Ngự, Đồng Tháp. Cái chết của ông Thắm không phải là cá biệt. Đầu thập niên 1970, các đơn vị nhỏ lẻ của quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn thường bị tập kích. Chỉ sau khi các đơn vị miền Bắc Việt Nam tấn công trừng phạt, Khmer Đỏ mới tạm hạn chế quấy rối. Năm 1970, hơn 800 cán bộ người Khmer tập kết ra miền Bắc Việt Nam được đưa trở lại Campuchia đã bị Khmer Đỏ dần dần thủ tiêu vì coi họ là những “người Khmer, đầu Việt”. Một số chạy thoát sang Việt Nam, nhưng theo ông Võ Văn Kiệt: “Thoạt đầu, Trung ương Cục chủ trương trả lại cho Khmer Đỏ, kết quả là tất cả họ khi về tới cứ của Pol Pot đều bị giết. Về sau, Trung ương Cục thống nhất với Pol Pot, phía Việt Nam chỉ trao trả những cán bộ nào chấp nhận trở lại hàng ngũ Khmer Đỏ”. Sau ngày 30-4-1975, Việt Nam cũng đang say sưa với chiến thắng, những chiến dịch gây hấn biên giới của Pol Pot đã không được đánh giá đúng mức và các nhà lãnh đạo, trong các chuyến đi tới Campuchia, cũng đã không đủ nhạy cảm để nhận ra Khmer Đỏ là ai, và đã không có ấn tượng đầy đủ trước không khí chết chóc đang bao trùm quốc gia chùa tháp. Ngày 2-6-1975, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh theo đường bộ từ Thành phố Hồ Chí Minh đến Phnom Penh gặp Pol Pot để giải quyết các vụ đụng độ ở các đảo Phú Quốc và Poulo Wai. Đường dài gần 200km qua ba tỉnh trước khi tiến đến thủ đô, nhưng ông đã không nhận thấy dấu hiệu khác thường gì. Đúng hai tháng sau, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn lại dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam đến Campuchia trong một chuyến thăm đáp trả chuyến đi ngày 12-6-1975 của Pol Pot, Nuon Chea và Yeng Sary. Một thành phố Phnom Penh vắng tanh đã không trở thành mối băn khoăn của ông và tùy tùng. Đúng một năm sau đó, Pol Pot cho phép một đoàn nhà báo Việt Nam đi đến nhiều nơi ở Campuchia, các nhà báo có nhận ra sự “vắng vẻ lạ thường” ở Phnom Penh nhưng rồi đã choáng ngợp khi Pol Pot trình diễn “tình anh em giữa hai đảng và hai dân tộc”255. Theo một thành viên của đoàn, nhà báo Tô Quyên, Chính phủ Pol Pot- Yeng Sary đã tái hiện “tình đoàn kết chiến đấu và hữu nghị tươi đẹp ấy” bằng một đêm trình diễn văn nghệ tại nhà hát lớn thủ đô Phnom Penh. Còn Thủ tướng Pol Pot thì tiếp đãi đoàn vô cùng nồng thắm256.

Chỉ mấy tuần sau khi đoàn nhà báo Việt Nam rời Phnom Penh, cuộc thanh trừng những nhân vật Khmer Đỏ có dính líu tới Việt Nam bắt đầu được Pol Pot tiến hành. Năm ấy, một số nhà lãnh đạo Khmer Đỏ vốn là đảng viên từ thời Đảng Cộng sản Đông Dương như Keo Meas đề nghị tổ chức kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập Đảng Campuchia, tính theo ngày 30-9-1951, ngày mà tại Việt Bắc, lãnh tụ Sơn Ngọc Minh tuyên bố thành lập Đảng Campuchia. Tuy nhiên, đó là một quá khứ mà Pol Pot không muốn dính líu. Mười ngày trước sinh nhật Đảng, Pol Pot ra lệnh đình chỉ việc chuẩn bị lễ kỷ niệm, đồng thời ra lệnh bắt Keo Meas và Nay Sarang, một nhà lãnh đạo cao cấp khác. Họ bị đưa đến nhà ngục nổi tiếng, Tuol Sleng, bị tra tấn cho đến khi “nhận tội” rồi bị giết chết. Pol Pot đã viết lại lịch sử bằng cách ra một văn bản, xác định thời điểm thành lập Đảng không phải là năm 1951 mà là 1960, năm Đảng Campuchia tổ chức đại hội và, sau đó, bầu ông ta làm phó bí thư. Pol Pot giải thích: “Chúng ta cần đặt lịch sử Đảng vào trong những gì trong sạch và hoàn hảo, vạch ra đường lối độc lập và tự chủ cho chúng ta”257. Sihanouk nhận ra thái độ của Khmer Đỏ với Việt Nam từ trước khi ông trở về Phnom Penh. Theo Nayan Chanda: Nhân dịp Quốc khánh Việt nam, 2-9-1975, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã mời Sihanouk và Khiêu Samphan, khi ấy đang là khách của Việt Nam, dự “tiệc gia đình”. Thành phần tham gia gồm Hà Nội, Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, các nhà lãnh đạo Lào, và Khmer Đỏ. Khieu Samphan đã làm Sihanouk “mất tinh thần và ngạc nhiên” khi “lạnh lùng từ chối” và nói rằng Campuchia muốn một bữa tiệc song phương. Sau đó, Khieu Samphan giải thích với Sihanouk: “Chúng ta không bao giờ để rơi vào cái bẫy của người Việt Nam, kẻ đang muốn thống trị và nuốt chửng Campuchia bằng cách lôi kéo vào liên bang Đông Dương của họ”258. Tháng 12-1976, khi Việt Nam tổ chức Đại hội Đảng lần thứ IV, đại hội như một đại lễ mừng chiến thắng, Khmer Đỏ chỉ gửi điện mừng thay vì cử đại biểu đến Hà Nội như hai mươi chín “đảng anh em” khác259. Nhưng đến tận lúc ấy, Việt Nam vẫn coi biên giới Tây Nam là nơi tiếp giáp với một “người anh em”. Trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1.000km ấy, Việt Nam chỉ bố trí bốn mươi hai đồn biên phòng; trong khi đó, bốn sư đoàn Khmer Đỏ gấp rút hoàn thành tuyến công sự dày đặc kéo dài từ bờ Vịnh Thái Lan đến vùng Sông Bé.

Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War)

Ngày 14-1-1977, gần một trung đoàn Pol Pot tấn công các đồn, chốt Việt Nam ở khu vực Buprang, gây cho phía Việt Nam những thiệt hại nghiêm trọng. Dân tình lo lắng, cán bộ các cấp cũng bắt đầu hết sức băn khoăn. Chiến tranh bắt đầu leo thang trong năm 1977: 30-4-1977, Pol Pot cho quân tấn công trên tuyến biên giới thuộc địa bàn Quân khu IX; tháng 8-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu VII; tháng 10-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu V. Ở Quân khu IX lúc ấy, chỉ một sư đoàn bộ binh được giữ ở trạng thái thường trực, trong khi hai sư đoàn bộ binh còn lại chuyển sang làm kinh tế – Sư 4 ở tứ giác Long Xuyên, Sư 8 ở Đồng Tháp Mười, chủ yếu đào kinh260. Tinh thần của bộ đội, vì thế, cũng có những “diễn biến khá phức tạp”. Theo Tướng Trà: “Sau bao nhiêu năm chiến đấu liên tục, gian khổ, ác liệt, chính sách hậu phương quân đội chưa được giải quyết thỏa đáng; yêu cầu được nghỉ phép, phục viên của anh em chưa được giải quyết, nhất là số anh em quê miền Bắc, hàng năm, bảy năm, thậm chí cả chục năm biền biệt xa nhà; rồi tư tưởng ‘xả hơi’, nghỉ ngơi, bộ đội đang từ thành phố, thị xã… nay lên vùng biên khai hoang, làm kinh tế, trần mình suốt ngày với cỏ dại, cây hoang, sình lầy, chua phèn; thiếu thốn cơ cực đủ bề”261.

Toàn biên giới Tây Nam cũng hầu như không có bộ binh thường trực, nên khi Pol Pot tấn công thì ở vào thế bị động, đối phó lúng túng và chịu tổn thất lớn. Tướng Lê Đức Anh thừa nhận: “Các tỉnh, các quân khu phía Nam thiếu sẵn sàng chiến đấu, biên giới bỏ ngỏ; chỉ huy tác chiến nặng về đánh theo lối chính quy hiệp đồng binh chủng nên tiêu hao đạn dược thì lớn mà hiệu suất chiến đấu rất thấp. Tháng 9- 1977, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp đề nghị Bộ Chính trị có chủ trương giải quyết tình hình biên giới Tây Nam”. Đêm 30-4-1977, Khmer Đỏ đưa quân đánh lấn suốt một dải biên giới từ Tây Ninh đến Hà Tiên, Kiên Giang. Tang tóc lại bao trùm không chỉ ở nơi xảy ra chiến sự. Trên tuyến biên giới do Quân khu IX đảm trách, từ huyện Mộc Hóa, Long An đến Hà Tiên, Kiên Giang, Pol Pot dùng bảy tiểu đoàn quân chính quy cùng với lực lượng địa phương thuộc quân khu Tây Nam đánh thẳng vào khu vực Bảy Núi, Tịnh Biên-An Giang. Hàng trăm dân thường dân bị tàn sát, hàng trăm ngôi nhà bị đốt. Các đơn vị đứng chân gần biên giới của Quân khu IX tuy đã nỗ lực tác chiến, nhưng theo ông Phạm Văn Trà: “Hầu hết đang làm nhiệm vụ sản xuất xây dựng kinh tế, chưa chuẩn bị đối phó với địch, nên có phần bất ngờ, bị động, lúng túng, thậm chí bị tổn thất”. Ngay đêm 30-4-1977, Tướng Lê Đức Anh ra lệnh cho Sư đoàn 330 chuyển sang trạng thái sẵn sàng cơ động lên tuyến biên giới đánh địch, đồng thời, theo ông Trà, Quân khu cũng được trên đồng ý cho thành lập thêm Sư đoàn 339 làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Bắt đầu từ đây, chiến sự không còn xảy ra trên đường biên. Một tháng rưỡi sau, Tư lệnh Quân khu IX Lê Đức Anh quyết định đưa một lực lượng gồm hai trung đoàn bộ binh có xe bọc thép M113, một trung đoàn tăng thiết giáp, hai phi đội máy bay tiêm kích, đánh hiệp đồng binh chủng ở quy mô sư đoàn từ hướng Kiên Giang, thọc sâu vào đất Campuchia, vòng về tiêu diệt phần lớn lực lượng Khmer Đỏ đang chiếm giữ Đầm Chích, xã Vĩnh Điện. Nhưng, theo Tướng Phạm Văn Trà, khi Sư đoàn 4 đang khôi phục tuyến biên giới Hà Tiên thì Khmer Đỏ tràn qua cửa khẩu Vịnh Bà, đánh sâu vào lãnh thổ tỉnh Đồng Tháp, chiếm một số khu vực, trong đó có khu vực tăng gia sản xuất tập trung của Sư đoàn 8. Tướng Lê Đức Anh lại phải lệnh: “Đưa ngay một trung đoàn lên Đồng Tháp”262. Sau khi Trung đoàn 1, Sư 330, bị điều lên lên Đồng Tháp theo lệnh của Tướng Anh, một hướng quan trọng là Tịnh Biên và Thất Sơn bị bỏ trống. Vừa lấy lại phần địa bàn của Sư 8 bị Khmer Đỏ chiếm giữ thì Ba Chúc, Tịnh Biên của An Giang lại bị Khmer Đỏ tập trung một lực lượng lớn đánh vào. Sư đoàn 4 buộc phải lùi về phía sau, Khmer Đỏ mặc sức tàn sát người dân vùng Ba Chúc. Tướng Lê Đức Anh lại phải điều Trung đoàn 1, sư 330, trở về giải vây rồi đẩy quân Pol Pot lùi qua bên kia kênh Vĩnh Tế. Không lâu sau, khi Trung đoàn 1 vừa rút đi, quân Pol Pot lại quay lại đánh Ba Chúc với quy mô cấp sư đoàn, lực lượng của Tỉnh đội An Giang không giữ được. Trung tuần tháng 12-1977, Quân khu IX đã thi hành phương thức phòng thủ mà Tướng Trà gọi là học theo kế “tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt thời chống Tống. Sư đoàn 330, gồm ba trung đoàn bộ binh chính quy, cùng hai tiểu đoàn địa phương quân An Giang, được trang bị một số xe M-113, đánh thẳng vào khu vực cố thủ của Khmer Đỏ ở núi Tham Đưng và núi Som sâu trong đất Campuchia từ hai mươi đến ba mươi cây số. Toàn tuyến phòng thủ của Pol Pot từ Ki Ri Vông đến quận lỵ Rề Minh thuộc tỉnh Tà Keo bị chọc thủng không mấy khó khăn. Thật trớ trêu khi người dân Campuchia đã vui mừng khi thấy quân đội nước ngoài đánh tới263. Các lực lượng của Quân khu IX đã ở lại trên đất Campuchia tổng cộng hai mươi ngày. Chưa đầy hai tuần sau khi quân Việt Nam rút về, giữa tháng 1-1978, quân Pol Pot tiến đánh ồ ạt vào các xã Nhơn Hội, Khánh Bình, thuộc huyện Châu Đốc, An Giang. Đặc biệt, ngày 15-1-1978, bảy tiểu đoàn của Trung đoàn 14 cùng với Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 2 của Pol Pot đánh chiếm Ba Chúc và núi Phú Cường thuộc huyện Tịnh Biên. Sư đoàn 4 và lực lượng địa phương của An Giang lại một lần nữa không giữ được địa bàn, để quân Khmer Đỏ tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên năm cây số, phá sập hai cây cầu trên trục đường từ thị trấn Nhà Bàng đi Ba Chúc, Chi Lăng. Đi tới đâu, lính Khmer Đỏ xả súng bắn giết tới đó, chúng bắt cả trẻ em, người già và ngang nhiên đập phá chùa chiền, tượng Phật. Sở chỉ huy tiền phương của Sư đoàn 330 đóng trên núi Trà Sư bị bao vây ba bề. Lính Khmer Đỏ lại mặc sức sát hại người dân Ba Chúc. Lính Khmer Đỏ không chỉ ném lựu đạn, xả súng bắn chết hàng nghìn thường dân ở hai ngôi chùa, nhiều thường dân khác còn bị giải ra đồng, xả súng bắn chết264. Theo ông Trà: “Xác chết chất thành đống trong xóm ấp và ngoài đồng. Không khí chết chóc bao trùm; quạ đen bay đầy trời”. Theo Tướng Phạm Văn Trà, sau khi đánh tan lực lượng Khmer Đỏ ở Phú Cường và Ba Chúc, bãi chiến trường được giữ lại gần một tuần lễ để các nhà báo trong nước và quốc tế đến quay phim. Chiến tranh biên giới với Campuchia bắt đầu được công bố265.

“Nhất Biên Đảo”

Hơn hai năm trước đó, trong lễ mừng chiến thắng, tổ chức vào ngày 15-5-1975 tại Hà Nội, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đã làm cho hàng triệu con tim “sởn gai ốc” khi, với giọng Quảng Trị trầm ấm, ông tuyên bố: “Chào mừng tổ quốc vinh quang của chúng ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát khỏi họa chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập tự do”266. Bí thư Lê Duẩn nói tiếp: “Trong 4.000 năm lịch sử của dân tộc ta thì hơn 100 năm lại đây là chặng đường đấu tranh chống ngoại xâm gay go nhất, quyết liệt nhất, nhưng cũng thắng lợi vẻ vang nhất”. Tại buổi lễ long trọng này, ông Lê Duẩn bày tỏ niềm tin: “Một dân tộc đã làm nên những chiến công hiển hách ấy xứng được hưởng hòa bình, tự do và hạnh phúc. Dân tộc ấy cũng nhất định có đủ tinh thần và nghị lực, sức mạnh và tài năng để vươn lên những đỉnh cao của thời đại, biến đất nước nghèo nàn lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề và trên đó, đế quốc Mỹ đã gieo biết bao tội ác, thành một nước văn minh, giàu mạnh, thành trì bất khả xâm phạm của độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương và Đông Nam Á”267. Ngay sau đó, Bộ Quốc phòng cho giải thể hàng loạt các đơn vị chiến đấu. Tháng 10-1976, Bộ Chính trị ra nghị quyết “về vấn đề quân đội làm kinh tế”, xác định: “Cách mạng nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn làm cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến” từ lúc ấy cũng bắt đầu được thay bằng khẩu hiệu: “Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Hà Nội gần như không có phản ứng chính thức ngay cả khi Pol Pot đã cho đánh tới quy mô cấp sư đoàn268. Áp lực từ các đơn vị quân đội và các địa phương tăng dần lên. Ông Nguyễn Thành Thơ kể: Cuối năm 1977, trong một lần đưa Tổng Bí thư Lê Duẩn thăm Cần Giờ bằng tàu quân sự, đến Văn phòng Huyện ủy đã khoảng 12 giờ, anh Ba nói, “Mệt quá cho tôi nghỉ một lát”. Anh nghỉ một lúc rồi nói: “Các anh có gì hỏi, tôi giải đáp”. Anh em chúng tôi có khoảng ba mươi người, phấn khởi rộ lên: “Xin hỏi K nó quấy rối biên giới ta, tàn sát cướp phá rất dã man, sao ta đối phó rất lôi thôi, chúng tôi khó hiểu”. Anh Lê Duẩn trả lời: “Các đồng chí hỏi đúng vào một tình hình cả nước đang quan tâm. Chúng tôi đau đầu lắm, ngủ không được. Không phải là vấn đề Khmer Đỏ, vấn đề Pol Pot mà là vấn đề ai ở đằng sau Khmer Đỏ, đằng sau Pol Pot. Ta đã đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung Quốc đánh ta thôi. Nếu ta không chiếm K, Trung Quốc cũng không chiếm ta”. Cuối năm 1977, khi đánh sâu vào đất Campuchia, theo ông Trần Phương, quân đội Việt Nam phát hiện nhiều tài liệu cho thấy Trung Quốc đứng sau lưng Pol Pot. Tháng 1-1979, khi tiến vào Phnom Penh, Quân đội Việt Nam còn thu được văn bản hiệp định viện trợ quân sự không hoàn lại mà Tướng Wang Shangrong, phó Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, ký với Son Sen tại Phnom Penh ngày 10-2-1976. Trong các năm 1977, 1978, Trung Quốc cung cấp cho Khmer Đỏ pháo binh, pháo phòng không, thuyền tuần tiễu… Đặc biệt, 500 chuyên gia quân sự Trung Quốc đã được gửi sang để huấn luyện Khmer Đỏ sử dụng những vũ khí, khí tài quân sự ấy. Cố vấn Trung Quốc thậm chí còn gặp cả người của lực lượng Fulro đang hoạt động chống Chính quyền Việt Nam ở vùng Tây Nguyên269. Làn sóng người Khmer tị nạn, nhất là những người tị nạn qua ngả Thái Lan, đã giúp thế giới biết được phần nào nội tình Campuchia. Trung Quốc sẽ không dám bất chấp dư luận quốc tế để ủng hộ một chế độ diệt chủng, nhất là ủng hộ những hành vi chiến tranh, nếu Việt Nam không để cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ rơi vào tay Trung Quốc. Sau ngày “chiến thắng đế quốc Mỹ”, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Cuba nhiều lần thiết tha mời anh Ba Lê Duẩn sang thăm. Fidel cứ giục mãi, nhiều đồng chí nhắc, anh Ba mắng: ‘Các chú muốn dân đói à?’. Rồi, anh Ba nói với Bộ Ngoại Giao: ‘Đúng là Fidel sang ta mấy lần, nhưng ta mới thắng Mỹ, sang Cuba không tuyên bố chống Mỹ thì Cuba không chịu, tuyên bố chống Mỹ thì, các chú thấy, sang cạnh nhà nó chửi nó, nó cấm vận mình suốt đời thì mình chết. Vì lợi ích quốc gia, tôi chưa thể đi được’. Rồi anh Ba cử Lê Đức Thọ đi, anh dặn: ‘Nên nói với đồng chí Fidel, tôi rất muốn sang, nhưng sức khoẻ có vấn đề, bác sĩ không cho đi máy bay xa, đồng chí Fidel thông cảm”.

Theo ông Đậu Ngọc Xuân, lúc ấy, nhiều người đã bất ngờ trước tư duy mềm dẻo này của ông Lê Duẩn. Cũng thời điểm ấy, theo ông Xuân: “Khi Bộ Chính trị bàn về vấn đề ‘ta có thừa kế cổ phần IMF mà chính quyền Sài Gòn cũ có tham gia không?’, có người nói: ‘Ta mà kế thừa Nguỵ à?’, có người lưu ý: ‘IMF là tư bản đấy!’, anh Ba quát: tại sao không!”. Đặng Tiểu Bình đã đánh trúng mối lo của Lê Duẩn khi về sau sẽ ví Việt Nam là Cuba ở phương Đông trong bối cảnh Việt Nam đang có những nỗ lực bất thành nối lại bang giao với Mỹ. Ông Trần Quang Cơ, năm ấy là vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ, kể, chỉ hơn một tháng sau khi làm chủ Sài Gòn, Việt Nam có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp miệng270. Tiếp đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói trước Quốc hội: “Việt Nam mời gọi Hoa Kỳ bình thường hóa và yêu cầu chính quyền Mỹ chi tiền tái thiết như đã hứa”. Các đại diện của hai ngân hàng Mỹ, Bank of America và First National City Bank, được mời họp về khả năng có thể giao thương, và các công ty Mỹ được thông báo rằng họ có thể ký kết tìm dầu ở thềm lục địa Việt Nam. Đáp lại những tín hiệu này, ngày 7-5-1976, Tổng thống Gerald R. Ford đề nghị Quốc hội Mỹ tạm ngưng cấm vận Việt Nam trong sáu tháng để tạo điều kiện cho việc đối thoại giữa hai nước. Ngày 8-5-1976, Ngoại trưởng Kissinger gửi công hàm cho Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận vấn đề “bình thường hóa”. Ngày 6-1-1977, Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra lộ trình ba bước bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và trước mắt có thể đặt quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. Tuy vậy, Tổng thống Mỹ Geral R. Ford có vẻ như vẫn chưa sẵn sàng khi đưa ra điều kiện để nối lại bang giao: Việt Nam phải làm đầy đủ hồ sơ về lính Mỹ mất tích (MIA), trong đó có việc trao trả hài cốt Mỹ. Phía Việt Nam cũng đòi bằng được Mỹ phải bồi thường chiến tranh, trong khi Mỹ cho rằng Việt Nam đã vi phạm Hiệp định Paris nên không thể bàn đến khoản tiền thỏa thuận trước khi ký Hiệp định Paris được. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, sau những diễn tiến này, ông Lê Duẩn nói: “Bình thường hóa là thua trận lần thứ hai, họ không chịu đâu”. Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức tổng thống, ông đã giảm điều kiện “làm đầy đủ hồ sơ lính Mỹ mất tích” xuống còn “làm đầy đủ trong khả năng có thể”. Tháng 3-1977, Carter gửi một phái đoàn sang Hà nội để bàn về việc nối lại bang giao. Ngày 17-3-1977, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã tiếp Đặc phái viên của Tổng thống Mỹ Leonard Woodcock. Cùng ngày, Woodcock đến chào Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Những nỗ lực bình thường hoá dưới thời Carter là có thật. Chỉ ba mươi phút sau khi tuyên thệ nhậm chức, Tổng thống Jimmy Carter rời lễ đài đi vào bên trong tòa nhà Quốc hội, và trước khi sang Nhà Trắng, ông ký lệnh ân xá cho những người Mỹ đã từng chạy sang Canada trốn lính nhằm tránh cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông Carter thừa nhận đó là “một quyết định khó khăn” và ông đã phải nhận những lời chỉ trích. Nhưng Tổng thống Carter nói: “Tôi nghĩ đó là một bước cần thiết để khởi đầu việc hàn gắn và đưa chúng ta ra khỏi nỗi ám ảnh Việt Nam để đi tới một kỷ nguyên mới tốt đẹp hơn”271. Ngày 4-5-1977, chính quyền của ông Carter đồng ý để Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc. Sau chuyến đi của ông Leonard Woodcock, Mỹ chủ trương bình thường hóa vô điều kiện. Ngày 3-5-1977, phiên đàm phán đầu tiên giữa hai phái đoàn Việt-Mỹ đã diễn ra tại Đại sứ quán Việt Nam ở Paris. Ông Trần Quang Cơ272, người tham gia cuộc đoàn đàm phán này, nhớ lại: “Một trong những điều ngáng trở tiến trình đàm phán là do chúng ta cứ khăng khăng đòi Mỹ phải chi 3,2 tỷ đô-la bồi thường chiến tranh”. Số tiền viện trợ 3,2 tỷ đô-la được coi như là một “thành công kép” mà Cố vấn Lê Đức Thọ mang về từ những cuộc hội đàm ở Paris273. Khoản tiền này đã từng được những nhà hoạch định kế hoạch kinh tế hậu chiến của Việt Nam tính toán như một nguồn quan trọng để thực thi kế hoạch. Trước khi đoàn lên đường sang Paris đàm phán bình thường quan hệ Việt-Mỹ, theo ông Trần Quang Cơ, ông Lê Đức Thọ, theo cung cách xin viện trợ của Liên Xô, đã cung cấp cho đoàn cả một danh sách dài bao nhiêu máy cày, bao nhiêu máy kéo để đòi Washington phải trả. Ông Trần Quang Cơ nhớ lại: “Holbrook nói thẳng với ông Phan Hiền: thôi thì cứ đặt ‘phòng quyền lợi’ đi, cứ bình thường hóa cái đã rồi khoản tiền 3,2 tỷ chúng tôi sẽ tìm cách viện trợ sau. Trưởng đoàn lúc ấy là ông Phan Hiền lập tức bay về Hà Nội báo với ông Nguyễn Cơ Thạch, ông Thạch thuyết phục Bộ Chính trị nhưng không được”. Khi Biên giới Tây Nam gần như được đặt trong tình huống chiến tranh và Trung Quốc đã được Ban Chấp hành Trung ương coi là “kẻ thù”, Việt Nam bắt đầu nhận thấy vai trò của việc quan hệ bình thường với một siêu cường như Mỹ. Đầu năm 1978, ở Tokyo (Nhật), Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phan Hiền tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng bình thường hóa vô điều kiện với Mỹ”. Lúc này, Jimmy Carter gần như đã nghiêng về chủ trương “chơi lá bài Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô” theo đề nghị của Cố vấn An ninh Quốc gia Z. Brzezinski. Tổng thống Jimy Carter thừa nhận: “Yêu cầu lúc đầu của phía Việt Nam là chúng ta phải bồi thường chiến tranh theo một số cách thức. Nhưng cuối cùng, tôi nhớ là năm 1978, họ rút lại đòi hỏi này. Điều phức tạp là cũng năm đó, tôi phải dồn tâm trí và đích thân đàm phán bình thường hoá với Trung Quốc. Những cuộc hội đàm giữa Israel và Ai Cập lúc ấy cũng đang diễn ra tại trại David. Tôi phải nói rằng, năm 1978, vấn đề Việt Nam không còn là ưu tiên hàng đầu của tôi nữa”274. Cùng thời gian này, FBI tung ra vụ “gián điệp” liên quan đến đại sứ Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc, ông Đinh Bá Thi. Ronald Humphrey, nhân viên của Cơ quan thông tin Hoa Kỳ, cùng David Truong, người của Hội Việt-Mỹ, bị bắt vì lấy cắp mấy bức điện tín được coi là không quan trọng lắm của Mỹ. Đại sứ Đinh Bá Thi bị trục xuất. 19-5-1978, một ngày trước khi Brzezinski tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: Trung Quốc là NATO phương Đông; đồng thời Đặng ví Việt Nam với Cuba, một “tiền đồn của Liên Xô” ở bên cạnh Mỹ. Ngày 23-8-78, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Cyrus Vance đi thăm Bắc Kinh. Ngày 21-8-78, bảy hạ nghị sĩ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa do Hạ nghị sĩ Dân chủ G.V.Montgomery, chủ tịch Ủy ban POW/MIA, dẫn đầu vẫn đến Hà Nội. Việt Nam đã cố bày tỏ thiện chí bằng cách trao trả cho Mỹ một số bộ hài cốt và cử ông Trần Quang Cơ đích thân dẫn đoàn vào miền Nam, thăm thánh thất Cao Đài và một trại người Campuchia tị nạn chiến tranh ở biên giới Tây Ninh. Đoàn của Hạ nghị sỹ Montgomery là đoàn người Mỹ đầu tiên được phép thăm Sài Gòn kể từ sau 30-4-1975. Nhưng, theo ông Trần Quang Cơ, quyết định chấp nhận công thức do phía Mỹ đưa ra “bình thường hóa vô điều kiện” vào lúc ấy đã là quá muộn. Cuối tháng 9-1978, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tới Mỹ sau một thời gian ông nằm ở Đà Nẵng dự thảo Hiệp định Hợp tác Toàn diện với Liên Xô. Cuộc đàm phán giữa ông Thạch và Holbrooke diễn ra lạnh nhạt. Theo ông Trần Quang Cơ, người có mặt trong cuộc đàm phán này, Holbrooke nói: “Mỹ coi trọng châu Á, Mỹ cần bình thường hóa quan hệ giữa hai nước nhưng lo ngại Liên Xô đặt căn cứ ở Cam Ranh”. Lúc đó, theo dự đoán của người Mỹ, có khoảng từ 3.500-4000 cố vấn Liên Xô đang có mặt ở Việt Nam275. Những ngày sau khi kết thúc chiến tranh, Lê Duẩn đã khá thận trọng trong mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, nhưng độc lập luôn bị thách thức trong mối quan hệ với những người “anh em cộng sản”. Cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều đặt Việt Nam vào thế phải đứng hẳn về một bên. Ngày 31-8-1975, trên đường đi dự Quốc khánh Việt Nam, Tướng Trần Tích Liên, ủy viên Bộ Chính trị, tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, đã không đi thẳng tới Hà Nội mà dừng chân tại Khu Gang Thép Thái Nguyên. Tại Nhà máy đang được xây dựng bởi Trung Quốc này, Tướng Liên đọc một diễn văn kêu gọi “chống bá quyền” mà ai cũng biết là chống Liên Xô. Hà Nội đã khá mềm dẻo khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng vẫn “ôm hôn thắm thiết” Trần Tích Liên, nhưng các báo xuất bản tại Việt Nam không nói gì tới bài diễn văn “chống bá quyền” của Trung Quốc.

Cuối tháng 9-1975, khi Lê Duẩn tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình, người mới được phục chức phó thủ tướng sau khi bị “bè lũ bốn tên” đưa ra khỏi Trung Nam Hải, nêu vấn đề “chống bá quyền” và ngầm khuyên nhủ Việt Nam liên kết với Bắc Kinh chống lại Moscow. Khi đáp từ, Lê Duẩn đã tránh đề cập tới “bá quyền” đồng thời “cám ơn sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em” tất nhiên là bao gồm Liên Xô. Sự né tránh đứng hẳn về phía Trung Hoa và vấn đề Hoàng Sa đã khiến cho chuyến đi của Lê Duẩn hoàn toàn thất bại: Trung Quốc từ chối viện trợ; Lê Duẩn từ chối thảo luận thông cáo chung; tiệc liên hoan bị hủy bỏ. Trung Quốc càng ngờ vực Việt Nam hơn khi một tháng sau đó, trong chuyến đi tới Moscow, Lê Duẩn có một “Thông cáo chung”, theo đó, Việt Nam nhất trí với Liên Xô trong đường lối đối ngoại. Đây là một thay đổi lớn. Tháng 3-1976, khi tham dự Đại hội XXV của Đảng Cộng sản Liên Xô, Lê Duẩn nhấn mạnh: Mỗi đảng cộng sản có thể theo đuổi một đường lối riêng, phù hợp với điều kiện của mỗi nước276. Liên Xô đã từng bất ngờ khi Việt Nam từ chối gia nhập khối Comecon277 trong khi xin gia nhập IMF. Tháng 12-1976, khi đến Hà Nội dự Đại hội Đảng lần thứ IV, Suslov được mô tả là đã giận dữ khi lần thứ hai thất bại trong việc thuyết phục Việt Nam vào Comecon278. Nhưng để “tiến nhanh lên xã hội chủ nghĩa”, Việt Nam lại rất cần tiền bạc. Trong khi đó, Trung Quốc cắt viện trợ, Liên Xô từ chối giúp đỡ, hy vọng vào 3,2 tỷ đô la “bồi thường chiến tranh” của Washington tiêu tan. Phạm Văn Đồng bị các nước lớn như Anh, Đức cự tuyệt và người Pháp thì lạnh nhạt. Ở trong nước, từ năm 1977, chính sách “sản xuất lớn” áp dụng vội vàng lại gây ra đói kém, mất mùa. Ngày 2-6-1977, trên đường từ Đông Âu trở về, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghé qua Bắc Kinh, nhưng người đối đẳng với ông là Bộ trưởng Quốc phòng Diệp Kiếm Anh đã không ra sân bay đón. Tướng Giáp gần như đã bị làm nhục trong suốt chuyến đi này279. Một tuần sau, khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng dừng chân ở Bắc Kinh, Phó Thủ tướng Trung Quốc Lý Tiên Niệm chính thức cáo buộc Hà Nội “lật lọng đối với Công hàm 1958”. Sau những sự cố ngoại giao đó, Việt Nam càng cảnh giác cao với Bắc Kinh. Ngày 2-5-1978, Ủy ban Thường Vụ Quốc hội ra Quyết định đổi một đồng tiền dùng chung cho hai miền. Theo đó, một đồng ngân hàng miền Bắc được đổi bằng một đồng tiền mới; 0,80 đồng tiền miền Nam “ăn” được một đồng. Không có biến động đáng kể vì lần đổi tiền này không nhằm “cải tạo tư sản” dù được đưa ra ngay sau “cải tạo tư sản”. Lý do công khai là “để thống nhất tiền tệ trong cả nước”. Nhưng, theo ông Nguyễn Nhật Hồng, đồng tiền Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam phát hành tại miền Nam từ ngày 22-9-1975 là tiền thuộc lô “Hàng 65” được Trung Quốc giúp in. Tuy nhiên, sau khi in, bản kẽm bị “bạn” giữ lại, Việt Nam xin lại mấy lần không được. Năm 1978, nhằm tránh Trung Quốc sử dụng bản kẽm mà họ đang giữ để in tiền tung ra phá hoại, Chính quyền cho đổi “Hàng 65” bằng một loại tiền mới được in từ Tiệp Khắc. Sự căng thẳng giữa Trung Quốc-Việt Nam càng thêm kịch tính sau cái chết của nữ nghệ sỹ Thanh Nga. Đêm 26-11-1978, vào lúc 23 giờ 30, xe của nghệ sỹ Thanh Nga rời rạp hát về đến trước nhà riêng ở số 114 Ngô Tùng Châu, Quận 1, thì bị một kẻ lạ mặt dùng súng khống chế người bảo vệ và chồng của nghệ sỹ Thanh Nga, luật sư Phạm Duy Lân. Cùng lúc, kẻ lạ mặt thứ hai dựng xe honda, nhảy vào bắt con của Nghệ sỹ Thanh Nga là bé Cúc Cu đang ngồi ghế sau với mẹ. Nghệ sỹ Thanh Nga chống trả quyết liệt, Luật sư Lân từ ghế lái xe quay lại hỗ trợ vợ, lập tức bị kẻ lạ mặt nổ súng bắn chết. Thanh Nga hét lên và đến lượt chị cũng bị bắn. Hai kẻ lạ mặt tẩu thoát. Cái chết của vợ chồng nghệ sỹ Thanh Nga làm rúng động cả nước vì khi bị bắn, chị chưa kịp thay bộ đồ “Thái hậu Dương Vân Nga”, một vai diễn hừng hực lửa chống “kẻ thù phương Bắc”. Trước đó, Thanh Nga cũng đã nhận được một số thư từ đe dọa khi chị diễn vai Trưng Trắc trong Tiếng Trống Mê Linh và đã từng bị ném lựu đạn khi đang diễn trên sân khấu Lux. Vụ án Thanh Nga vì thế lúc đầu được coi như là một chuyên án chính trị. Quan tài hai vợ chồng quàn tại 81 Trần Quốc Thảo thu hút hàng vạn người Sài Gòn280. Sự cự tuyệt của Trung Quốc và Mỹ cuối cùng đã đặt Việt Nam vào thế “nhất biên đảo”. Từ tháng 7-1977, các phái đoàn quân sự của Liên Xô bắt đầu đến các căn cứ quân sự cũ của Mỹ ở miền Nam. Tháng 10-1977, chuyến thăm Việt Nam của phái đoàn quân sự Liên Xô được công khai trên các phương tiện truyền thông. Cùng lúc, Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho Pol Pot. Giữa tháng 10-1978, ở New York, Nguyễn Cơ Thạch hối thúc các nhà đàm phán Hoa Kỳ ký thỏa thuận bình thường hóa. Có lẽ ông Thạch cũng muốn có một nỗ lực cuối cùng. Nhưng Hoa Kỳ đã từ chối vì ba “trở ngại” mới: sự thù địch của Việt Nam với Campuchia, mối quan hệ với Liên Xô, và tình trạng gia tăng thuyền nhân Việt Nam. Sau một tháng trời chờ đợi, Nguyễn Cơ Thạch phải rời New York tay không, ông chuyển tiếp ở Paris, rồi từ đó qua thẳng Moscow. Trước đó, sáng 30-10-1978, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng đã rời Hà Nội trên một chiếc Ilyyushin-62 bay tới Liên Xô. Ngày 3-11-1978, Hiệp ước Hợp tác Toàn diện với Liên Xô trong vòng hai mươi lăm năm, bao gồm điều khoản cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh như một căn cứ quân sự, đã được ký kết. Hiệp ước đã như một “món quà” đối với Đặng Tiểu Bình. Hai ngày sau, ông ta đến Thái Lan, bắt đầu chuyến công du ASEAN, thuyết phục các quốc gia ở đây coi Việt Nam và Liên Xô, thay vì Trung Quốc, là mối đe dọa chính. Trong khi đó, vững tin vào mối quan hệ với “siêu cường”, Việt Nam bắt đầu xử lý mối bận tâm ở phía Tây Nam đất nước.

“Áo lính lại khoác vào ngay”281

Từ tháng 6 đến tháng 12-1978, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức bốn hội nghị Bộ Chính trị, Quân ủy và Ban Chấp hành Trung ương để bàn về vấn đề Campuchia. Tính từ tháng 12-1977 đến ngày 14-6-1978, có 6.902 bộ đội Việt Nam bị hy sinh, 23.742 bị thương; ngoài ra, có 4.100 thường dân bị thương và bị giết. Trung ương xác định phải giải quyết cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam càng nhanh càng tốt. Ngày 13-12-1978, 10/19 sư đoàn của Pol Pot tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đã đánh vào Bến Sỏi hòng chiếm Tây Ninh. Hai sư đoàn đánh vào Hồng Ngự, Đồng Tháp. Hai sư đoàn đánh vào Bảy Núi, An Giang. Hai sư đoàn đánh vào Hà Tiên. Một sư đoàn đánh vào Trà Phô, Trà Tiến, Kiên Giang. Ngày 23-12-1978, Lực lượng quân Việt Nam với nòng cốt là ba quân đoàn chủ lực cùng với lực lượng của các Quân khu V, VII, IX, dưới sự chỉ huy của Tướng Lê Trọng Tấn, bắt đầu tấn công trên toàn mặt trận, đẩy Khmer Đỏ lùi dần về phía Tây. Khmer Đỏ không bất ngờ trước những phản ứng này. Nhưng thay vì tập hợp lực lượng để đối phó với Việt Nam, Pol Pot đã tranh thủ thanh lọc quân đội, đảng và cả nhân dân, để có những “người Khmer thuần khiết” nhằm “bảo vệ đất đai và nòi giống”282. Những cuộc thanh trừng của Pol Pot đã đẩy hàng loạt sỹ quan của Khu Đông phải chạy vào rừng như Ouk Bun Xươn, Heng Somrin, Chea Sim, Hun Sen. Những người này về sau đã tới Việt Nam. Trong thời gian đó, ông Lê Đức Thọ bay vào Nam để chuẩn bị cho một giải pháp chính trị. Một nhóm lãnh đạo gồm bảy người do Lê Đức Thọ lựa chọn từ số những người Khmer tập kết còn sót lại và số vừa chạy sang từ Khu 203. Lê Đức Thọ cũng dựng lên một “Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết Cứu nước” gồm mười bốn người rồi đưa về Campuchia tổ chức lễ ra mắt tại Mimot vào ngày 2-12-1978. Một lực lượng đặc công cũng được giao nhiệm vụ đột nhập Hoàng cung để tìm Hoàng thân Sihanouk nhưng thất bại. Lá bài Sihanouk lần nào cũng được Trung Quốc khai thác hữu hiệu hơn Việt Nam. Ngày 5-1-1979, Pol Pot đã nghe lời khuyên của Bắc Kinh, đề nghị Sihanouk đến Liên Hiệp Quốc lên án “hành động xâm lược của Việt Nam”. Ngày 6-1-1979, ông Hoàng đã lên chiếc Boeing 707 của Bắc Kinh bay sang BangKok. Ngày 7-1-1979, Quân đội Việt Nam vượt phà Neak Lương tới Phnom Penh nhanh tới mức lực lượng Khmer Đỏ chỉ kịp rời thành phố trước khi đại quân tới khoảng một giờ. Ngày 11-1-1979, Yeng Sary mới chạy đến biên giới Thái Lan và được quân đội Thái đưa về BangKok để đi tiếp tới Bắc Kinh. Ngày 13-1-1979, Yeng Sary bị Đặng Tiểu Bình trách mắng. Trong khi đó, ở Liên Hiệp Quốc, Sihanouk đọc diễn văn lên án “hành động xâm lăng của Việt Nam” đồng thời tố cáo chế độ bạo tàn của Pol Pot. Theo đề nghị của Sihanouk, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra thảo luận nghị quyết buộc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Tuy nhiên, nghị quyết này đã bị Liên Xô dùng quyền lực Thường trực Hội đồng Bảo an phủ quyết. Từ phiên họp của Liên Hiệp Quốc, Sihanouk bí mật tìm gặp Đại sứ Mỹ Andrew Young, nhưng nước Mỹ đã đẩy Sihanouk trở lại tay của Đặng Tiểu Bình khi từ chối yêu cầu của ông xin tị nạn.

Chỉ hai ngày sau khi Việt Nam đưa quân vào Phnom Penh, 9-1-1979, Ngoại trưởng Mỹ Cyrus Vance tuyên bố với ông Trần Quang Cơ: “Các cuộc nói chuyện Mỹ- Việt về bình thường hóa đã tan vỡ do cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam”283. Ngày 15-12-78, Mỹ và Trung Quốc ra thông cáo chung, chính thức công nhận nhau và tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 1-1-79. Ngày 29-1-1979, Jimmy Carter đón Đặng Tiểu Bình tại Washington bằng hai mươi phát đại bác. Đặng Tiểu Bình biết ảnh hưởng quốc tế của cuộc chiến tranh xâm lược Việt nam nên đã thông báo với Tổng thống Carter mức độ “giới hạn” của cuộc tấn công. Tuy khuyên Đặng “không nên có hành động xâm lược”, nhưng trong cuộc họp riêng giữa hai người, Carter không cho Đặng thấy là cuộc tấn công sẽ ảnh hưởng đến bang giao của hai nước. Vào lúc 5 giờ 25 sáng ngày 17-2-1979, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ cực Tây Bắc (Phong Thổ, Lai Châu) đến cực Đông Bắc (địa đầu Móng Cái). Tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn đã dựng người dân dậy khi mờ sáng. Vào thời điểm ấy, Trung Quốc tập trung sát biên giới khoảng 450 nghìn quân284 và sử dụng 200 nghìn quân trong ngày đầu xâm lược285. Việt Nam bị bất ngờ hoàn toàn286. Các lực lượng tự vệ ở khu vực Hữu Nghị Quan hầu hết bị quân Trung Quốc giết chết ngay từ những phút đầu tiên. Phụ nữ, trẻ em chỉ kịp chạy về phía sau hốt hoảng. Ở hướng Trà Lĩnh, Cao Bằng, hàng trăm người dân đã phải chạy vào hang núi tránh pháo và sáng ra, họ nhìn thấy quân Trung Quốc í ới gọi nhau ngay sát dưới chân.

Tháng 2-1979, ở biên giới, Trung Quốc có tới sáu mươi sư đoàn tinh nhuệ, trong khi ở phía Bắc, theo Tướng Lê Phi Long, cục phó Cục Tác chiến, lực lượng vũ trang Việt Nam tổng cộng chỉ còn khoảng mười một sư đoàn. Đội quân chủ yếu làm kinh tế ấy đã phải phản công trong điều kiện hết sức bất ngờ. Chỉ huy các đơn vị đóng tại Lạng Sơn, ngày 15-2-1979, còn được triệu tập để nghe nhận định: “Địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn vào ngày 22-2”287. Ở Cao Bằng, sáng 16-2, tất cả các đồn trưởng biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh. Sáng hôm sau, khi họ cố tìm về đơn vị thì Trung Quốc đã tràn sang. Sáng 17-2, Đại đội 22 của thị xã Cao Bằng mới được trang bị thêm mười bảy khẩu súng chống tăng B41. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất” trên xe tăng Trung Quốc, người dân mới hay đất nước lại chiến tranh. Chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc đã sử dụng tới sáu sư đoàn, ở Lạng Sơn ba sư đoàn và Lào Cai ba sư đoàn. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng một sư đoàn và bốn mươi tăng; Lạng Sơn, một sư đoàn và bốn mươi tăng; Lào Cai, hai trung đoàn và bốn mươi tăng. Lực lượng Trung Quốc

áp sát biên giới vào ngày 17-2 lên tới chín quân đoàn chủ lực288. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát Xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã. Tại Lào Cai, khu mỏ Apatit bị đập nát từ các nhà máy cho đến các thiết bị, máy móc; hai nhà ga gần nhất là Gốc Đa và Làng Pèng bị phá tan hoang; chiếc cầu nối đường sắt qua con suối chảy ra từ làng Cóc cũng bị lính Trung Quốc đánh sập. Sapa chỉ còn là một đống gạch vụn. Đồng Đăng, Lạng Sơn cũng bị tàn phá. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc lần lượt đập nát từng ngôi nhà, từng công trình và trước khi rút lui đã ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Ở Bát Xát, Lào Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút quân, lính Trung Quốc đã giết bốn mươi ba người, gồm hai mươi mốt phụ nữ, hai mươi trẻ em, trong đó có bảy phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pot. Mười người bị ném xuống giếng, hơn ba mươi người khác, bị chặt ra nhiều khúc, thây vứt hai bên bờ suối. Bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Con đường tiến vào thị xã Cao Bằng đã được quân Trung Quốc gọi là những “khe núi đẫm máu”289. Đặc biệt, Tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Mãi tới ba tuần sau quân Trung Quốc mới chiếm được thị xã Lạng Sơn, trong khi đây là nơi mà Đặng muốn chiếm được ngay trong tuần đầu tiên hòng gửi một thông điệp đe dọa tới Hà Nội. Khoảng 25.000 lính Trung Quốc bị chết, 37.000 quân khác bị thương. Tổn phí chiến tranh hết khoảng 5.5 tỷ Nhân dân tệ trên tổng chi tiêu ngân sách năm 1979 của Trung Quốc là 22,3 tỷ. Cuộc chiến mà Đặng Tiểu Bình nói là để “dạy cho Việt Nam một bài học”, theo các nhà phân tích quân sự phương Tây, “chính Việt Nam mới là người đã dạy cho Trung Quốc bài học” 290. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân Việt Nam cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi, quân đội Trung Quốc đã bộc lộ là một đội quân đã quá lâu không ở trong tình trạng sẵn sàng tác chiến. Ngày 2-3-1979, như để giải thích cho việc “án binh bất động” khi đồng minh của mình bị tấn công, tại Moscow, Tổng Bí thư Brezenev tuyên bố: “Đừng ai nghi ngờ việc Liên Xô trung thành với Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác gắn bó Liên Xô với Việt Nam”. Cùng ngày 2-3-1979, hãng thông tấn xã Tass của Liên Xô phát đi một tuyên bố: “Quân đội Trung Quốc phải rút ngay khỏi lãnh thổ Việt Nam… Những tên xâm lược Trung Quốc cần biết rằng chúng càng gây nhiều tội ác bao nhiêu, thì sẽ càng bị trừng phạt nghiêm khắc bấy nhiêu” 291. Ngày 4-3-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra lời kêu gọi “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, anh dũng tiến lên”. Lời kêu gọi cho rằng, “ngày nay, chúng ta có sức mạnh vĩ đại hơn bao giờ hết, sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc và của ba dòng thác cách mạng của thời đại”. Ngày 5-3-1979, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 83-CP, “quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân” nhằm “đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của bọn phản động theo chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc”. Cùng ngày, Chủ tịch nước ra lệnh “Tổng động viên”. Trên báo Nhân Dân, Hoàng Tùng xã luận: “Cả nước đánh giặc, toàn dân là lính”. Cùng thời điểm đó, hai quân đoàn tinh nhuệ nhất của Việt Nam, sau khi đuổi Pol Pot khỏi Phnom Penh, được vận chuyển bằng máy bay ra phía Bắc: Quân đoàn II lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì, Bắc Kạn. Ngày 6-3-1979, Trung Quốc tuyên bố “chiến thắng” rồi bắt đầu rút quân.

Chú thích

219 Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.

220 Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.

221 Phạm Văn Trà, 2009, trang 260.

222 Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.

223 Phạm Văn Trà, 2009, trang 252-260.

224 Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978.

225 Năm 1939, biên giới Campuchia - Việt Nam đã được xác lập theo lằn ranh Brevié, theo đó: Một đường thẳng vẽ từ biên giới đất liền, theo một góc 140 độ về hướng vịnh Thái Lan; khi tới đảo Phú Quốc thì lệch ra ba cây số về hướng Bắc, đặt Phú Quốc trong phần lãnh thổ Việt Nam. Sau năm 1954, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa định một “đường ranh tuần tiễu” khác, xác lập lãnh thổ Việt nam bao gồm đảo Trọc. Cũng trong thập niên 1960, miền Bắc Việt Nam công nhận đường Brevié với Chính quyền Sihanouk, nghĩa là không bao gồm đảo Poulo Vai. Trong cuộc họp trù bị tại Phnom Penh bắt đầu từ ngày 4-5-1976, Trưởng Đoàn Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền, công nhận tất cả các đảo phía Bắc lằn ranh Brevié thuộc quyền Campuchia, nhưng đề nghị đàm phán lại về “lằn ranh tuần tiễu”. Cuộc đàm phán kéo dài đến ngày 18- 5-1976 thì phía Campuchia đề nghị tạm hoãn để có thời gian “xin chỉ thị của các Uỷ viên Ban Thường vụ Đảng đang đi công tác xa Phnom Penh”.

226 Trong năm 1976 mà Nuôn Chea nhắc đến “tình anh em cách mạng” đó, Khmer Đỏ đã gây ra 250 vụ xâm lấn lãnh thổ, pháo kích, tập kích, gài mìn, cắm chông, cướp trâu, cướp bò và giết hại vô cùng dã man nhiều người dân vùng biên giới… Từ tháng 12-1975, Khmer Đỏ đã tiến hành hàng loạt vụ gây hấn: lấn sâu vào lãnh thổ Việt Nam ở vùng Sa Thầy hơn 10km; chiếm kho thóc X 114 rồi đóng luôn lại đó; bắt, mang đi toàn bộ 113 người dân làng Xộp, thuộc tỉnh Gia Lai- Kon Tum; tập kích đồn Biên phòng số 8, tỉnh Daklak… Thế nhưng, Phnom Penh vẫn nói, đó là những hành động gây ra “do hiểu lầm ở các địa phương” (Sài Gòn Giải Phóng, 26-1-1978).

227 Ngô Điền, 1992, trang (?).

228 Có khoảng 1.671.000 trên tổng số 7.890.000 dân Campuchia đã bị giết trong khoảng thời gian từ 1975 đến năm 1979, (21%). Trong đó, có 215.000 người Hoa trong tổng số 430.000 người Hoa ở Campuchia (50%); 20.000 người Việt Nam trong tổng số 20.000 người kẹt lại ở Campuchia; 4,000/10,000 người Lào; 2.000/5.000 người Khmer Krom; 90.000/250.000 người Chàm; 8.000/20.000 người Thái; 9.000/60.000 người thượng (Ben Kiernan, The Pol Pot Regime, Nhà Xuất bản Đại học Yale 1996, trang 458).

229 Henry Kissingger, 2003, trang 67.

230 Sđd, trang 68.

231 Khi ở cảng Sihanoukville, vũ khí được chở về gần tới nơi thì ở Hà Nội, Đại tá Lê Xuân Ba, trưởng Phòng Kế hoạch của Tổng Cục hậu cần hẹn ông Nguyễn Nhật Hồng ra một vườn hoa, khi thì Chí Linh, khi thì vườn hoa đối diện Cột Cờ Hà Nội.

Đại tá Ba kẹp tờ vận đơn mà Liên Xô cung cấp, liệt kê chủng loại vũ khí được chở trên những con tàu sắp về trong một tờ báo. Ông Hồng cũng cầm một tờ báo bên trong kẹp bảng đơn giá vũ khí. Họ tính toán giá trị tổng số vũ khí rồi tính ra khoản tiền 10% chi cho Lonnol, 10 % chi cho Sihanouk, báo cho hai người biết khối lượng hàng hóa, khoản tiền mà họ sẽ được trả; B29 chuyển tiền vào tài khoản bí mật của hai người. Sihanouk, Lonnol kiểm tra thấy có đủ tiền thì đồng ý cho tàu vào cảng. An ninh được bảo đảm gần như tuyệt đối vì, theo ông Hồng, chính Lonnol cử một tiểu đoàn bảo vệ trong quá trình bốc dỡ ở cảng và sau đó áp tải vận chuyển từ cảng về các căn cứ của quân Giải phóng.

232 Sihanouk và Bernard Krissher, 1999, trang 133-134.

233 Sđd, trang 137.

234 Trung Quốc đã dành cho Sihanouk một khu gồm những dinh thự đẹp, chỉ cách Thiên An môn một quãng ngắn, để làm trụ sở Chính phủ. Ở Bắc Kinh, các lãnh tụ cộng sản Trung Hoa trong khi đưa Cựu hoàng Phổ Nghi của họ đi làm vườn đã cung cấp cho Sihanouk nhiều nhân viên phục vụ và cả một đội đầu bếp tài giỏi, một ban thư ký lớn và các dịch vụ thông thường của một Hoàng cung, kể cả nhân viên văn phòng, một đội xe con, một trung tâm thể thao và một phòng chiếu phim riêng. Theo Sihanouk: “Chu không bao giờ cho phép tôi đi tàu hỏa thông thường hoặc máy bay chở khách đến các tỉnh của Trung Quốc kể cả khi đi thăm nước ngoài. Ông luôn dành cho tôi những chuyến tàu đặc biệt có một toa rất xa hoa dành cho tổng thống hoặc thuê chuyên cơ cho tôi, kể cả một máy bay phụ để chở những thùng quà ngoại giao mà tôi sẽ tặng trong các chuyến thăm hữu nghị” (Sihanouk và Bernard Krissher, Hồi ký Sihanouk, Trần Chí Hùng dịch, Nhà Xuất bản Công an Nhân dân 1999, trang 124). Trước và sau những chuyến đi, Chu Ân Lai - vị Thủ tướng của quốc gia hơn 800 triệu dân - bao giờ cũng đích thân đưa và đón một ông hoàng thất thế bằng những nghi thức mà Bắc Kinh vẫn dành cho hàng nguyên thủ.

235 Theo Kissinger: “Chính Hà Nội đã cự tuyệt đề nghị của Mỹ phục hồi tư cách trung lập của Campuchia khi tôi trao đổi với Lê Đức Thọ trong một cuộc gặp bí mật ngày 4-4-1970. Chính Hà Nội từ chối đàm phán hòa bình với điều kiện tiên quyết phải loại trừ tất cả những cơ cấu phi Cộng sản. Chính Hà Nội đã bác bỏ các đề nghị đình chiến vào tháng 10-1970, 5- 1971, 10-1971, 10-1972 cho đến tháng 1-1973. Chính Khmer Đỏ được Hà Nội tổ chức, trang bị và hậu thuẫn đã ngăn cản việc đưa Campuchia vào Hiệp định Paris, điều mà Mỹ nhiều lần mong muốn” (Henry Kissingger, 2003, trang 470).

236 Ben Kiernan, 1996, trang 16.

237 Trong khoảng thời gian từ tháng 2 cho đến tháng 8-1973, người Mỹ đã ném 257.465 tấn bom xuống các khu vực nói là của Khmer Đỏ. Pol Pot cho rằng miền Bắc Việt Nam có phần trách nhiệm khi ký Hiệp định Paris để Mỹ rảnh tay tiêu diệt Khmer Đỏ. Nhưng Kissinger thừa nhận “việc ném bom là con bài mặc cả” giữa Bắc Kinh và Mỹ, vì “Chu Ân Lai cần hoạt động quân sự của Mỹ ở Campuchia để chính sách của mình đạt hiệu quả” (Kissinger, 2003, trang 484). Chu Ân Lai biết ngay cả Trung Quốc cũng khó khiến cho Khmer Đỏ chấp thuận trừ khi chúng bị thuyết phục là “chúng không thể chiếm ưu thế về mặt quân sự khi tiếp tục bị ném bom” (Kissinger, 2003, trang 484).

238 Henry Kissingger, 2003, trang 475.

239 Henry Kissinger, 2003, trang 475.

240 Sđd, trang 474.

241 Ngô Điền, 1992, trang (?).

242 Để tổ chức chuyến đi kéo dài từ 27-2 cho đến 17-4-1973, tháng 2-1973, Việt Nam thành lập “Đoàn Thắng Lợi”, trong đó có hai cán bộ nữ phục vụ riêng bà hoàng Monique, tổng cộng 89 người. Một quan chức của Bộ Ngoại giao được cử làm Trưởng Đoàn; Cựu Đại sứ Việt Nam tại Campuchia Nguyễn Thương và Đại tá Lê Đình Xoàn, Phó Tư lệnh 559, Phó Đoàn.

Ngày 27-2-1973, Đoàn đi xe vào Đồng Hới để ngày hôm sau đón Sihanouk cùng bà Hoàng và “cố vấn” Yeng Sary, được đưa từ Hà Nội vào bằng máy bay AN 26. Từ Đồng Hới, Đoàn đi qua Lao Bảo, theo Đường 9 Nam Lào qua Khe Sanh, Bản Đông, Sê Pôn… đi hết phạm vi quản lý của 14 binh trạm 559. Đến Trạm F470, nơi được mô tả là một khu rừng nằm cạnh sông Mekong, Đoàn Việt Nam “bàn giao” Sihanouk cho Khmer Đỏ rồi ở đấy chờ đón ông quay về Hà Nội.

243 Theo lời Sihanouk kể lại với nhà báo Nayan Chanda, trong suốt chuyến đi gần một tháng trên lãnh thổ Campuchia, Son Sen, một lãnh tụ Khmer Đỏ, nói với ông: "Lính Việt Nam vẫn thường trộm cắp trong các phum, hãm hiếp phụ nữ và đặt các căn cứ, tuyển quân người Khmer trợ chiến cho họ". Còn Khiêu Samphan thì nói: “Việt Nam đang chuẩn bị lập ra một chính phủ người Khmer nhưng phụ thuộc vào người Việt”.

244 Võ Nguyên Giáp, 2000, trang 320.

245 Ben Kiernan, 1996, trang 48.

246 Philip Short, 2004, trang 7.

247 Ben Kiernan, 1996, trang 2.

248 Sđd, trang 55.

249 Sđd, trang 96.

250 Ben Kiernan, 1996, trang 97.

251 Nayan Chanda, 1993, trang 42.

252 Sđd, trang 43.

253 Ben Kiernan, 1996, trang 94.

254 Ben Kiernan, 1996, trang 10.

255 Trong loạt phóng sự đăng trên báo Giải Phóng, ba số báo đầu tháng 8-1976, một thành viên của đoàn, nhà báo Tô Quyên viết: “Nếu hơn một năm trước đây, Phnom-Pênh tấp nập ồn ào… thì ngày nay thủ đô Chùa Tháp trở nên vắng vẻ, yên tĩnh lạ thường. Cảnh tượng vắng lặng hầu như bất động này bắt gặp ngay từ đêm đầu tiên chúng tôi từ ngoại ô qua cầu Mô-ni- vông cũ vào trung tâm thành phố. Những dãy đèn điện cao áp vẫn soi ánh mặt đường nhưng trên đường không thấy bóng người đi lại. Thỉnh thoảng mới thấy hắt ra ánh đèn nê-ông từ các cửa sổ của một vài ngôi nhà. Ban ngày, luớt qua các khu phố, chúng tôi cũng thấy phần lớn các dãy nhà đều đóng cửa hoặc bỏ trống không người ở. Ở một vài góc đường gặp các chiến sĩ cầm súng đứng gác, lâu lâu nâng bổng cây tre sơn màu đỏ trắng chặn ngang đường cho xe chạy qua. Buổi sớm và buổi chiều vào giờ làm việc, vài chiếc honda, năm ba chiếc ô tô vận tải đủ loại chở đầy nguời mặc áo đen, trùm khăn rằn đỏ chạy qua đường phố, bóp còi inh ỏi khi gần đến ngã tư... Để chúng tôi có thể hiểu được vì sao Thủ đô và các thành thị sầm uất trở nên vắng vẻ, thưa thớt như hiện nay, các bạn Campuchia đã giới thiệu đôi nét về tình hình vừa qua và chủ trương đưa dân về các vùng nông thôn sản xuất... Các lãnh tụ Khmer Đỏ nói: “Các đồng chí đến nước chúng tôi cứ coi như trong gia đình vì chúng ta từ lâu đã là bạn chiến đấu”... Và suốt 15 ngày ở thăm đất nước Campuchia anh em, đến bất cứ nơi nào chúng tôi cũng nhận được những tình cảm hết sức thân thiết, nồng nhiệt của bạn. Các bạn Campuchia đã coi chúng tôi như những người anh em một nhà đi xa mới về. Sự chăm sóc hết sức chu đáo, tỉ mỉ của bạn cho từng bữa ăn, giấc ngủ tại chỗ cũng như trong suốt cuộc hành trình qua tám tỉnh của đoàn làm chúng tôi vô cùng cảm động. Qua chuyến đi này, đúng như lời của Phó Thủ Tướng Yêng Sary trong buổi chiêu đãi: “Đoàn càng hiểu hơn nữa những tình cảm cách mạng sâu sắc và tinh thần đoàn kết chiến đấu và hữu nghị của nhân dân Campuchia chúng tôi đối với nhân dân Việt Nam, không có trở ngại nào có thể làm lay chuyển nổi”.

256 Trên số báo Giải Phóng ra ngày 10-8-1976, ông Tô Quyên viết: "... Đặc biệt, từ khi nước Campuchia dân chủ thành lập, đây là lần đầu tiên Thủ tướng Pol Pot chính thức tiếp khách nước ngoài. Với giọng nói đầy tình cảm, Thủ Tướng nhắc lại:“Chúng tôi dành ưu tiên cho đoàn báo chí Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc đoàn đi thăm nuớc Campuchia Dân chủ là một sự cổ vũ đối với nhân dân chúng tôi”. … Chúng tôi rất cảm kích nhớ mãi lời phát biểu đầy tình nghĩa của đồng chí Thủ tướng Polpot: “Tình đoàn kết hữu nghị giữa cách mạng Campuchia và cách mạng Việt Nam, giữa hai nước Campuchia và Việt Nam là một vấn đề vừa là chiến lược, vừa là tình cảm thiêng liêng. Tình đoàn kết hữu nghị đó có tốt thì cách mạng cả hai nước chúng ta mới phát triển tốt được. Không có con đường nào khác”.

257 Nayan Chanda, 1993, trang 82.

258 Sđd.

259 Hoa Quốc Phong, chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc, thậm chí còn không trả lời thư mời dự Đại hội Đảng lần thứ IV của Việt Nam.

260 Theo ông Phạm Văn Trà, khi ấy đang là tham mưu trưởng sư đoàn 330: “Cuối năm 1976… Sau một thời gian chuẩn bị lực lượng, Pol Pot bắt đầu cho quân hoạt động vũ trang ở biên giới. Lúc này, Sư đoàn 4 chuyển sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế; Sư đoàn 8 thực hiện biểu biên chế rút gọn, cho bộ đội phục viên, xuất ngũ hàng loạt. Trước yêu cầu tình hình mới, Quân khu IX được trên chấp thuận cho tổ chức Sư đoàn 330 cơ động sẵn sàng chiến đấu” (Đại tướng Phạm Văn Trà, Đời Chiến Sĩ, Nhà Xuất bản Quân đội Nhân dân 2009, trang 272). Theo Tướng Trà, có một số nơi đã làm tốt hơn Quân khu IX của Tướng Lê Đức Anh, ví dụ như ở Quân đoàn II, khi cho bộ đội ra quân, Quân đoàn giữ lại một số cán bộ khung, nhân viên kỹ thuật và một tỷ lệ cựu binh nhất định nên khi có chiến sự chỉ cần đưa tân binh vào, lính cũ kèm cắp lính mới, trong một thời gian ngắn là chiến đấu tốt.

261 Phạm Văn Trà, 2009, trang 269.

262 Phạm Văn Trà, 2009, trang 286.

263 Theo ông Phạm Văn Trà: “Khi bộ đội ta truy kích, địch bỏ chạy tán loạn. Nhân dân bạn bị giam cầm trong các trại tập trung, tựa đại hạn gặp mưa rào; xem bộ đội Việt Nam như vị cứu tinh xuất hiện, cứu sống họ. Nhân dân bạn tha thiết mong bộ đội Việt Nam ở lại một thời gian để bà con được nhờ. Khi bộ đội ta buộc phải rút về, hàng nghìn người dân Campuchia nằng nặc đòi đi theo. Nhiều người vừa khóc vừa nói: Bộ đội Việt Nam là bộ đội nhà Phật, đã sang cứu sống chúng tôi. Nay bộ đội rút về, hãy cho chúng tôi về theo, nếu ở lại sẽ bị ăngca giết mất… Cảm thương nhân dân bạn vô cùng, nhưng chúng tôi không thể để bà con theo về được” (Phạm Văn Trà, 2009, trang 292).

264 Theo Tướng Phạm Văn Trà: “Khi quân Pôn Pốt tràn qua kênh Vĩnh Tế, đánh vào Ba Chúc, bà con vô cùng khiếp sợ.

Hàng nghìn người trong xã hoảng sợ kéo vào hai ngôi chùa lớn để nương nhờ cửa Phật, hi vọng kẻ thù dù có dã man, tàn bạo mấy cũng nương tay trước Đức Phật từ bi. Nhưng lính Pôn Pốt đã ném lựu đạn, xả súng giết hại hàng nghìn Phật tử - phần lớn là người già, trẻ nhỏ. Một số người trốn chạy vào các hang đá trong núi cũng bị quân Pôn Pốt sục sạo sát hại. Sau khi tổ chức cho Sư đoàn tiêu diệt gọn gần một sư đoàn quân Pol Pot, chiếm lại núi Phú Cường và Ba Chúc, tôi cùng một số cán bộ, chiến sĩ đã vào các hang đá tìm cứu bà con mình. Trong hang có rất nhiều xác chết không đầu. Thấy chúng tôi tìm vào hang, có mấy người sống sót tưởng chúng tôi là lính Pôn Pốt, bèn quỵ sụp lạy như tế sao. Sau khi được anh em ân cần giải thích, bà con mới trấn tĩnh, kể lại nỗi kinh hoàng ngày 15-1-1978” (Phạm Văn Trà, 2009, trang 293).

265 Ngày 25-1-1978, chiến sự trên Biên giới Tây Nam được công bố trong cuộc họp báo do ông Ngô Điền - Vụ Trưởng Vụ Thông tin Báo chí Bộ Ngoại Giao - chủ trì được nói ở đầu Chương.

266 Người “chấp bút” bài diễn văn nổi tiếng này, ông Đống Ngạc, nhớ lại: “Năm 1978, khi Pol Pot gây hấn ở Tây Nam và năm 1979, khi Trung Quốc đánh ta ở biên giới phía Bắc, có người nói với tôi: Khi đó cậu viết thế là mất cảnh giác”. Ngay sau ngày 30-4, khi các đồng sự khác hăm hở theo ông Lê Duẩn vào Nam, ông Đống Ngạc được giao ngồi lại thủ Đô để chuẩn bị, ông được dặn: “Cậu phải viết sao cho giống Bình Ngô Đại Cáo”.

267 Bài thơ mà năm 1976 Bộ trưởng Ngoại giao Xuân Thủy làm, về nội dung chỉ “văn vần hóa” tuyên bố nói trên của ông Lê Duẩn: “Bốn nghìn năm ngoảnh lại thuở Văn Lang/ Ta đang tới đỉnh cao nhân loại”.

268 Nếu như năm 1976, khi nghe Lực lượng Công an Võ trang báo cáo nguy cơ chiến tranh xảy ra ở vùng Biên giới ông Lê Duẩn có thể gạt đi thì năm 1977, trợ lý của Lê Duẩn, ông Trần Phương kể: “Đi khảo sát Biên giới, chúng tôi nhận ra xung đột vũ trang không phải do cấp dưới vô kỷ luật như Pol Pot giải thích nữa. Khmer Đỏ đã tác chiến bằng sư đoàn, cấp mà địa phương không thể tự ý điều binh được”.

269 Cũng trong khoảng thời gian này, Khmer Đỏ cho người sang gặp Ya Duck, “Phó Thủ tướng thứ nhất phụ trách nội an và ngoại giao” của Fulro (Mặt trận thống nhất đấu tranh các dân tộc bị áp bức - Front Unifié de Lutte des Races Opprimées - thành lập năm 1964 bởi một số người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, người Chăm và người Khmer Krom, chống chính quyền Sài Gòn và chính quyền Việt Nam sau năm 1975. Phong trào Fulro tan rã năm 1992 khi 407 binh sỹ nộp vũ khí cho UNTAC tại Campuchia). Theo ông Ya Duck: “Họ đi một đoàn hơn 10 người, nói thẳng là cần sự hợp tác để chống Việt Nam”. Ya Duck sau đó đã sang Campuchia gặp Pol Pot và ông được cả cố vấn Trung Quốc tiếp. Pol Pot cũng như “cố vấn Trung Quốc” hứa sẽ giúp Fulro mọi mặt chứ không chỉ giúp đất đai làm căn cứ.

270 Theo ông Trần Quang Cơ, nội dung của thông điệp là “Lãnh đạo Việt nam Dân chủ Cộng hòa tán thành có quan hệ tốt với Mỹ trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Trên tinh thần đó, phía Việt Nam đã tự kiềm chế trong khi giải phóng, tạo cơ hội cho người Mỹ không bị cản trở trong việc tiến hành di tản nhân viên của họ. Phía Việt Nam đã cố gắng làm mọi sự cần thiết để không làm xấu đi quan hệ với Mỹ trong tương lai. Không có sự thù địch với Mỹ ở Việt Nam và Việt Nam cũng không muốn thấy như vậy ở phía Mỹ”.

271 Bài trả lời phỏng vấn Brian Williams, công bố trong Hội thảo Vietnam and the Presidency, 10-3-2006.

272 Khi ấy là vụ trưởng vụ Bắc Mỹ, Bộ Ngoại giao Việt Nam.

273 Hiệp định Paris ghi: “Thể theo truyền thống hào hiệp của mình, Hoa Kỳ sẽ tham gia giúp đỡ tái thiết (Việt Nam) sau chiến tranh”. Nhưng, sau khi đôi bên hoàn thành việc ký tắt, ngày 23-1-1973, Lê Đức Thọ đã thỏa thuận được với Kissinger con số viện trợ 3,250 tỷ đô-la Mỹ, ngoài ra, Mỹ sẽ viện trợ biếu không mỗi năm 650 triệu đô-la. Kissinger còn trao cho ông Lê Đức Thọ một bản dự thảo công hàm về việc xây dựng lại Miền Bắc, bản chính thức đã được trao cho Việt Nam ngày 1- 2-1973.Theo Kissinger: “Cuộc họp bắt đầu vào lúc 9:35 sáng thứ Ba, ngày 23-1-1973, Lê Đức Thọ vẫn thành công ngay cả tại những dịp trang trọng trong việc biến mình thành một người rất khó chịu bằng cách yêu cầu phía Mỹ đảm bảo chắc chắn về việc viện trợ kinh tế cho Bắc Việt Nam. Tôi nói với ông ta rằng điều đó chỉ được thảo luận thêm khi Hiệp định đã được ký kết; điều đó còn phụ thuộc vào việc Quốc hội thông qua bản Hiệp định và việc tuân thủ Hiệp định” (H. Kissinger, 2003, trang 429).

274 Bài trả lời phỏng vấn Brian Williams, công bố trong Hội thảo Vietnam and the Presidency, 10-3-2006.

275 Vogel, 2011, trang 281.

276 Theo Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ.

277 Council for Mutual Economic Assistance, một tổ chức thương mại của các quốc gia cộng sản.

278 Theo Trần Quang Cơ.

279 Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh kể: “Trung Quốc đối xử với đoàn rất kém trọng thị. Khi đến thăm tỉnh Cương Sơn cùng với đoàn tổng tham mưu trưởng quân đội Triều Tiên. Người ta đã bố trí đoàn Triều Tiên (cấp thấp hơn đoàn ta) ăn ở phòng sang trọng hơn, bố trí đoàn ta ăn ở phòng thường, thậm chí cho ngồi những chiếc ghế không có lưng dựa. Vì vậy, khi về đến Vũ Hán họp đoàn, nhận xét chuyến thăm, cả đoàn đều bất bình, đồng chí Giáp cũng bực lắm. Mọi người đều muốn gặp Bộ Ngoại giao Trung Quốc để nói rõ những sự đối xử không tốt đó và biểu thị thái độ bất bình. Nhưng tôi góp ý: Ta nên biết vậy thôi, bây giờ làm thế chỉ thêm căng thẳng, không giải quyết được vấn đề gì.

Đoàn đồng chí Giáp cuối cùng đã đồng ý với tôi và ra về. Trên xe lửa trở về, phía Trung Quốc vẫn chưa thôi thái độ xấu, họ dọn cho đoàn cả một chiếc bát mẻ miệng”.

280 Bốn tháng sau đó, khi bắt được kẻ chủ mưu giết Thanh Nga - Nguyễn Thanh Tân, đồng thời cũng chính là kẻ chủ mưu trong vụ bắt cóc con trai nghệ sỹ Kim Cương - Cảnh sát không tìm ra bằng chứng nào liên quan tới các “âm mưu chính trị”.

Nhưng trong phiên tòa đặc biệt xử “vụ án Thanh Nga” vào ngày 4-12-1979, Hội đồng xét xử vẫn thêm vào phần luận tội: “Ai cũng thấy là Tân có một ý đồ sâu xa thâm độc hơn là những điều y nhận tội... Nghệ sĩ Thanh Nga là người có tài, có lòng yêu nước, là một chiến sĩ dũng cảm trên mặt trận văn hóa. Trước khi vụ án này xảy ra, chị đã bị bọn phản động khủng bố. Nhưng, bất chấp sự đe dọa, nghệ sĩ Thanh Nga vẫn dũng cảm làm tròn trách nhiệm của mình trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Trong lúc đang xảy ra cuộc chiến đấu gay gắt giữa nhân dân ta và bọn “Bành trướng Bắc kinh”, trong lúc người nghệ sĩ yêu nước Thanh Nga đang thủ diễn những vai cổ vũ tinh thần yêu nước của quân đội ta sẵn sàng chiến đấu chống bọn “Bành trướng phương Bắc”, rõ ràng hành động của bọn Tân cố ý giết chết nghệ sĩ Thanh Nga đã gây tổn thương rất lớn và sự phẫn nộ rất lớn trong lòng quần chúng” (Sài Gòn Giải Phóng, 6-12-1979).

281 Lời “Bài ca tạm biệt”, một bài hát thời chiến tranh biên giới.

282 Trong năm 1977, Tướng Nhim Ros, tư lệnh Quân Khu Tây Bắc, kiêm phó chủ tịch Hội Đồng Nhà nước bị giết. Tiếp đó là Bộ trưởng Hu Nim. Trung Quốc quan sát và tỏ ra muốn Khmer Đỏ bớt tàn bạo hơn. Tháng 4-1978, một người Trung Quốc ôn hòa là Đặng Dĩnh Châu được cử tới Phnom Penh, khuyên Pol Pot nên sử dụng Sihanouk để tranh thủ ủng hộ của dân chúng và quốc tế; gợi ý đàm phán với Việt Nam trên nguyên tắc “chung sống hòa bình”. Nhưng, trong những ngày Đặng Dĩnh Châu đang ở Phnom Penh, Pol Pot đưa ba sư đoàn quân Trung ương xuống Quân Khu Đông, bắt giữ gần năm trăm cán bộ, chủ yếu từ cấp tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng và các chi khu trưởng, đưa tới trung tâm khủng bố Tuol Sleng. Tư lệnh Quân Khu Đông, còn gọi là Khu 203, Đệ nhất Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước So Phim, thông gia với Nhim Ros, cũng bị Pol Pot cho là không nên tồn tại. Giữa tháng 5-1978, Tướng Ke Pauk, Tư lệnh Quân Khu Trung ương cho mời So Phim tới họp. So Phim thận trọng chỉ cử đại diện đi và không ai trong số họ trở về. Ngày 24-5-1978, Ke Pauk đưa một lữ đoàn thiết giáp tới bao vây Bộ tư lệnh Quân Khu Đông, bắt giam các sỹ quan, So Phim trốn thoát. Viên tướng được Bắc Kinh đánh giá cao này vẫn còn hy vọng giải tỏa những “hiểu lầm” nên đã chạy về Phnom Penh, cho người liên lạc với Pol Pot. Ngày 2-6-1978, khi So Phim tới điểm hẹn, thay vì gặp Pol Pot những tay súng đã đón ông. So Phim tự sát. Vợ con ông bị giết. Lực lượng từ Quân Khu Trung ương và Tây Nam tràn tới, tàn sát gần như toàn bộ binh lính và thường dân sống trong các công xã Khu Đông. Con số người Khmer bị giết bởi Pol Pot trong dịp này lên tới hơn một trăm nghìn người.

283 Cho dù sau đó, ngày 30-11-1978, trợ lý ngoại trưởng Mỹ Oakley vẫn nói với ông Trần Quang Cơ, khi ấy đang được ông Thạch để ở lại New York để “giữ cầu” và ngày đêm thúc giục Mỹ bình thường hóa, rằng: “Mỹ không thay đổi lập trường bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ ba vấn đề: Campuchia; Hiệp ước Việt-Xô và người di tản”, nhưng theo ông Trần Quang Cơ: “Tôi nghĩ, thực ra Mỹ đã quyết định dứt bỏ quá trình đàm phán bình thường hoá quan hệ với Việt Nam từ khi Việt Nam tham gia khối Comecon, tháng 6-1978, và sau đó, ký hiệp ước với Liên Xô”.

284 Việt Nam ước đoán lực lượng Trung Quốc có khoảng 600 nghìn tham gia chiến dịch này.

285 Vogel, 2011, trang 529-531.

286 Cục trưởng Cục Tác chiến lúc bấy giờ là ông Lê Hữu Đức thừa nhận: “Chúng ta hoàn toàn bất ngờ, ở Quân khu I, trước đó, Đàm Quang Trung đã cho tập trung súng ống vào kho, làng xã không hề chuẩn bị gì cho chiến đấu”. Tướng Đức nói tiếp: “Trong một hội nghị quân sự, Đại tướng Văn Tiến Dũng thừa nhận chúng ta bị bất ngờ cả mặt trận Tây Nam và phía Bắc. Khi bắt đầu rục rịch chiến tranh, anh Văn Tiến Dũng gọi tôi tới nhà riêng, bảo tôi lên Quân Khu II nói với anh Vũ Lập: Phải tiêu diệt được vài đại đội, trung đội quân Trung Quốc. Khi đó có ai nghĩ Trung Quốc sử dụng tới sáu quân đoàn để đánh ta đâu”.

287 Theo Đại tá Hà Tám, lúc đó là trung đoàn trưởng Trung đoàn 12 Biên phòng, đóng ở Lạng Sơn.

288 Mân Lực, 1993.

289Mân Lực, 1993, trang (?).

290 Vogel, 2011, trang 533.

291 Nhân Dân, 3-3-1979.







Chương 6: Vượt Biên




Ngày 7-8-1987, khi Trần Minh Triết292 lên thuyền, anh kể: “Tôi thấy chuyến vượt biên còn có hai thầy giáo và hai người bạn học cùng lớp của mình”. Những năm ấy, người dân miền Nam nói: “Nếu cây cột đèn mà biết đi chắc nó cũng đã bứng đất mà đi mất”. Nếu như những gì xảy ra trong các trại cải tạo có thể được giữ kín, thì vượt biên lại là vấn đề gây chú ý ngay sau khi có các thuyền nhân tới được vùng biển quốc tế. Những chiếc thuyền đánh cá nhỏ nhoi chở hàng trăm người đối chọi với sóng dữ, với cướp biển, với sự thờ ơ của các quốc gia lân bang đã gây rúng động dư luận.







“Vượt biên”

Vụ vượt biên đầu tiên bị bắt và bị đưa ra công khai do “đám chủ công ty vàng lá Kim Thành” tổ chức. Nhưng, do tính đơn lẻ của nó, chính quyền và dư luận chưa đánh giá vượt biên thực sự là một vấn đề. Báo chí Sài Gòn, kể cả tờ báo của của nhóm các dân biểu đối lập trước 30-4-1975 như Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, cũng coi những người vượt biên này như tội phạm.

Vụ việc được nhật báo Tin Sáng viết: “Lực lượng võ trang giải phóng quận Nhà Bè vừa tóm được trọn ổ bọn người định vượt biên trốn ra nước ngoài đem theo một số lượng lớn vàng và kim cương vào ngày 22-8 vừa qua. Được biết kẻ chủ mưu là đám chủ công ty vàng lá Kim Thành. Đám này đã đứng ra tổ chức cho một số tài phiệt Hoa kiều và một số sĩ quan chế độ cũ trốn ra nước ngoài. Hiện nay cả bọn đang bị câu lưu và chờ ngày ra tòa xét xử”293. Báo Sài Gòn Giải Phóng còn cho biết thêm: “Phần lớn số này là những sĩ quan ngụy ác ôn, trốn tránh học tập cải tạo”294.

Tờ Tin Sáng viết tiếp: “Sau khi cả bọn bị bắt, Ủy ban Quân quản đã đến tiếp thu căn nhà lầu hai tầng tại số 39 Phan Châu Trinh vào lúc 4 giờ 15 phút ngày 26-8.Đây là tiệm vàng Kim Đô, bán các loại nữ trang bằng vàng ở phía ngoài, nhưng phía trong là cả một cơ sở đúc vàng”.

Biên bản họp Trung ương Cục do ông Hà Phú Thuận lập vào ngày 3-9-1975 cho biết chi tiết vụ vượt biên đầu tiên này: “Ta còn bắt giữ chín tên: La Quang, SầmHào Tài, Đặng Ngôn, Đào Hưng, Huỳnh Diệu Quang, Lê Văn Y và Nguyễn Văn Thôi. Hai tên sau cùng là nhân viên hàng không, nhiều lần tổ chức mua bán vàng lậu từ Hong Kong – Sài Gòn và Sài Gòn – Hong Kong thời Ngụy. Khi bắt Lê Văn Y ta lấy được 200 lượng vàng. Sơ kết, ta đã lấy được 8.437 lượng vàng 24 cara; 70 hột xoàn từ một đến năm ly; 182 triệu tiền miền Nam; 10.550 đôla, 1.700 tiền Thái Lan. Toàn bộ tiền vàng đã kiểm kê và giao cho ngân hàng”. Chính quyền quân quản đã tịch thu nhà của chủ tiệm vàng Kim Thành. Quyết định này về sau sẽ có giá trị như một án lệ.

Biên bản ngày 3-9-1975 còn nhắc đến một vụ vượt biên nữa do “chủ hãng Việt Hoa, công ty Kiến Trúc tổ chức” mà chính quyền biết được qua lời khai của “cơ sở”. Những người vượt biên trong vụ này khi bị phát hiện đã “đổ vàng xuống sông và xé đô la”. Đặc biệt, theo biên bản: “Cơ sở ta cho biết, nó nói đã hối lộ cán bộ hai triệu nên nó được thả. Được về, nó tỏ ra hối tiếc với số vàng và đôla. Nó nhận xét có thể mua chuộc được cán bộ, cán bộ ta cũng ăn hối lộ nhưng ăn ít mà hở hang – thua Ngụy, ăn nhiều mà kín, những vụ hối lộ lớn hai ba năm sau mới bị lộ. Hiện nay chúng chuyển tiền ra miền Bắc về Hong Kong qua trung gian cán bộ. Chúng chủ trương có hai hy sinh: hy sinh tài sản còn sinh mạng thì tìm mọi cách để trốn ra đi bằng mọi đường chủ yếu là hối lộ… Có mấy vụ liên quan đến cán bộ như sáu cán bộ Ban Thống nhất ở không đăng ký và sau đó trốn đi. Một cán bộ Thông tấn xã Trung ương tên Lương Mạnh ở đường Nguyễn An Ninh đã làm biên nhận lấy hai triệu bạc cho cơ quan Thông tấn xã”.

Đến tháng 11-1977, cuộc họp Thường vụ Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu ghi nhận hiện tượng vượt biên. Nghị quyết 44/NQ-77 của cuộc họp này viết: “Trên lĩnh vực an ninh chính trị nổi lên các hiện tượng đáng chú ý như số vụ, sốngười bỏ Tổ quốc chạy trốn ra nước ngoài vẫn tiếp tục tăng trong đó có cả cán bộ, nhân viên đang công tác trong các cơ quan nhà nước… Đối với một bộ phận nhân dân, thậm chí cả một số ít cán bộ, đảng viên, trước khó khăn về đời sống kinh tế… đã xuất hiện tâm lý dao động, băn khoăn, hoài nghi, đặc biệt là giới trí thức và tầng lớp trung gian, thiếu tin tưởng ở tiền đồ của Cách mạng”.

Ngày 7-5-1979, tại Hội nghị Cải tạo Công thương nghiệp Tư doanh diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh với thành phần gồm lãnh đạo các tỉnh thành từ Bình Trị Thiên tới Minh Hải, ông Võ Văn Kiệt nói: “Tôi xin nêu vài con số về số người trốn ra nước ngoài: Từ tháng 10-1978 đến tháng 3-1979, có trên 20.000 người, không kể số người Hoa ta cho họ đi sau khi cải tạo. Trong số này có trên 1.500 cán bộ, nhân viên, cán bộ khoa học, kỹ sư, bác sỹ… Đáng chú ý, có trên ba mươi vụ cướp tàuđánh cá trốn, mười lăm vụ cướp chúng ta ngăn chặn được”295. Nhưng ngay sau đó, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Những con số trên đây còn thấp so với sự thật”.

Chỉ tính riêng những người may mắn được cứu vớt đưa tới các trại tị nạn, con số đã cao hơn nhiều số được báo cáo. Năm 1975 mới chỉ có 377 người; năm 1976 đã tăng đến 5.619 người; năm 1977 tăng lên 21.276 người; năm 1978, con số cao gấp tám lần so với mức thống kê của chính quyền, 106.489 người; năm 1979, chỉ tính đến tháng 7, đã là 292.315 người296.

Không chỉ có vượt biên bằng thuyền, một số không nhỏ khác thậm chí còn đến Thái Lan qua ngả Campuchia trong những năm tháng Quân đội Nhân dân Việt Nam đang đánh nhau với Khmer Đỏ. Năm 1981, khi nhà văn Phan Nhật Nam đang ở trong tù, vợ và hai con ông, một chín tuổi, một mười bốn tuổi đã theo đường bộ qua ngả Campuchia. Ông Nam nói: “Không hiểu nhờ phép màu nào mà vợ con tôi trốn thoát. Ở biên giới Campuchia – Thái Lan có đêm giày lính Pol Pot gần như đạp ngay trước mặt”.

Tháng 11-1985, sau chín lần vượt biên bằng thuyền bất thành, và sau khi gia đình được chính phủ Thụy Điển bảo lãnh nhưng không được Việt Nam cho phép, chàng trai hai mươi mốt tuổi Lê Phương Đông đã đi bộ suốt bốn tháng theo ngả Campuchia. Anh bị quân đội của Son Sann297 bắt cùng bốn người Việt Nam khác. Cả bốn người bị giam giữ tại trại lính của Son Sann và bị buộc phải lao động khổ sai.

Sau mấy tháng, Đông và ba người cùng đi được một người lính Thái Lan giúp trốn thoát. Tháng 4-1987, Đông được đưa sang Thụy Điển.

Lê Phương Đông là con trai của nữ nhà văn Nhã Ca và nhà thơ Trần Dạ Từ. Cả hai đều bị bắt, và cho tới khi Đông tới Stockholm, ông Trần Dạ Từ vẫn đang ở trong tù. Từ trường hợp của vợ chồng nhà văn Nhã Ca, năm 1981, chính phủ Thụy Điển và Hội Văn bút Quốc tế bắt đầu gây áp lực lên chính quyền Hà Nội yêu cầu thả những nhà văn bị giam giữ. Năm 1984, Thụy Điển cũng đã bảo lãnh cho hơn 700 người Việt Nam ra đi.

Trước đó, ca sỹ Mỹ Joan Baez, người đã từng phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam, năm 1979 đã dẫn đầu một cuộc biểu tình lên tới 12.000 người, đốt nến và đi bộ đến Nhà Trắng, cho công bố một thư ngỏ “phản đối chính sách tàn bạo của Chính phủ Việt Nam”. Ngày 20-7-1979, Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc triệu tập một hội nghị về thuyền nhân Việt Nam tại Geneva với sáu mươi quốc gia tham dự. Tại

hội nghị, Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Nguyễn Cơ Thạch, nói “thuyền nhân” chỉ là “những phần tử bất mãn của chế độ cũ, những kẻ có nợ máu với nhân dân, những thành phần đĩ điếm, trốn tránh lao động”.Khi về nước, ông Nguyễn Cơ Thạch lại có thái độ khác. Ông Trần Quốc Hương (Mười Hương), bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI, kể: “Tôi ra Hà Nội, Nguyễn Cơ Thạch chửi: các anh làm ăn thế nào để người ta vượt biên. Trong khi đó, anh Lê Đức Thọ lại nói, các anh phục kích bắt vượt biên là không nên. Tội gì làm cho mang tiếng. Không thể giữ được họ đâu, ngày xưa vợ con lính sống bằnglương Mỹ, giờ họ sống bằng cái gì. Tôi biết quốc tế có Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR), tôi chỉ thị cho công an, phối hợp với họ làm chương trình cho họ ‘đoàn tụ’ đi. Cho đi hết. Ta không giữ cái đó làm gì. Đây là tội chúng nó, phải để chúng nó gánh”298. Ở thành phố, những nhà lãnh đạo như ông Mười Hương biết, “thuyền nhân” không phải là “những kẻ nợ máu hay đĩ điếm”.

Từ “trí thức yêu nước”

Nhiều trí thức Sài Gòn cũ, không phải vô cớ, đã trở thành thuyền nhân. Con đường để họ phấn đấu trở thành “con cưng” của chế độ mới không hề bằng phẳng. Họ vừa có thể bị khinh rẻ bởi các đồng nghiệp cũ, vừa bị kỳ thị bởi các “trí thức xã hội chủ nghĩa” vừa từ miền Bắc vô, vừa bị bế tắc bởi môi trường làm việc thiếu thốn và không được chế độ mới hoàn toàn tin cậy.

Khi tình hình kinh tế trở nên khó khăn, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh quan tâm tới các trí thức Sài Gòn cũ bằng cách trợ cấp thêm mỗi tháng mấy lít xăng, mấy chục ký gạo, một ít than củi, nhưng lại không thể giúp họ phá vỡ những bứcbách để có thể làm những điều mà người trí thức mong muốn. Vậy mà theo ông Võ Văn Kiệt: “Một số trí thức từ miền Bắc vào hoặc đi tập kết về than phiền, ‘Thành ủy nuôi mấy ông cũ, tụi này heo nuôi’. Anh em ở ngoài vô cũng đòi tái đánh giá để cấp bằng lại đối với những trí thức trong Nam, kể cả những người đã làm tiến sỹ ở Pháp, Mỹ”.

Những ngày ấy, tiến sỹ học ở Liên Xô về được tính hệ số 1, tiến sỹ ở Pháp được tính hệ số 0,9, còn tiến sỹ ở Mỹ thì chỉ được tính hệ số 0,8. Trong đợt đầu, một người từng lấy bằng tiến sỹ ở Mỹ, từng được phong giáo sư trước năm 1975 nhưông Chu Phạm Ngọc Sơn cũng chỉ được nơi ông giảng dạy đề nghị phong phó giáo sư299. Ông Chu Phạm Ngọc Sơn kể: “Nhà tôi, năm 1954 di cư từ Bắc vô, rất sợ, vì đang là trưởng Phòng Xét nghiệm của Bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Giải phóng vô nói bả là giai cấp áp bức phải giao lại chức cho người khác không có chuyên môn lên thay. Cái bàn cũng không có ngồi mà bả không dám kêu ca gì cả”.

Sau ngày 30-4-1975, Chu Phạm Ngọc Sơn là một nhà chuyên môn hợp tác toàn diện với chế độ. Ông và một số nhà khoa học khác thường không câu nệ khi nhận các đơn đặt hàng thực hiện những công trình “khoa học” phục vụ nhu cầu chính trị. Theo Tổng thư ký Hội Trí thức Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh Huỳnh Kim Báu: “Những năm ấy, các trí thức Sài Gòn vẫn nhận được điện thoại từ Văn phòng Thành ủy hỏi xem: ‘Có công trình khoa học chào mừng 3-2 hay 19-5 không?’. Những Giáo sư như Phạm Biểu Tâm, Lê Văn Thới thì mắng ngay: ‘Không có thứ khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả’. Nhưng một số người khác thì có, người thì làm ra chất tẩy rửa ‘pentonic’, người chứng minh ‘ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký thịt bò’, người thì ‘ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo’. Nhưng ngay cả những ‘nỗ lực’ đó cũng không giúp kiến tạo được lòng tin”.

Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn kể: “Nhìn vào lý lịch, thấy trước đây năm nào tôi cũng đi Mỹ nghiên cứu hoặc đi dạy, người ta cứ thắc mắc sao đi Mỹ quá trời. Tôi nộp đơn xin vô Hội Trí thức Yêu nước, mấy lần bị từ chối”. Năm 1980, trong thời gian Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn đi Liên Xô, một người con của ông vượt biên không thành. Người con gái của ông cũng cảm thấy bế tắc khi thi không đậu vào dự bị y khoa. Biết chuyện, ông Võ Văn Kiệt thỉnh thoảng qua lại, trò chuyện, khi hiểu thêm nội tình, ông nói với Giáo sư Sơn: “Thôi, anh cứ để cho cô ấy và mấy cháu đi, đi chính thức. Bên đó có điều kiện cho các cháu học hành. Sau này nếu các cháu trở về thì tốt, nếu không, tôi với anh cũng được làm tròn bổn phận”.

Ông Huỳnh Kim Báu kể: Sau giải phóng, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn vào Sài Gòn, sau khi nghe Mai Chí Thọ, Trần Trọng Tân báo cáo tình hình, ông nói: “Nãy giờ có một chiến lợi phẩm rất lớn mà các đồng chí không đề cập, đó là lực lượng trí thức được đào tạo từ nhiều nguồn. Lenin nói, không có trí thức là không có xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Kim Báu, cách mà chính quyền sử dụng trí thức chủ yếu là “làm kiểng”.

Giáo sư Phạm Hoàng Hộ tuy ở thời điểm đó vẫn còn là hiệu phó Đại học Khoa học, nhưng theo ông Báu: “Đấy chỉ là một chức vụ bù nhìn, không có vai trò gì trong giáo dục”. Giáo sư Hộ là hiệu phó nhưng không phải đảng viên, nên khi có vấn đề gì thì những người trong Đảng họp riêng, quyết định xong, có việc nói vớiông, có việc ông không bao giờ được biết. Từ rất sớm, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã phản đối cách đào tạo đưa thời gian học chính trị quá nhiều vào chương trình. Ông cảnh báo: “Nếu chính trị can dự quá mạnh, các nhà khoa học sẽ mất căn bản”.

Giáo sư Phạm Hoàng Hộ nói lên điều này sau khi chính ông đã được trải nghiệm trong những ngày học chính trị. Năm 1977, một lớp học kéo dài mười tám tháng về “Chủ nghĩa xã hội khoa học” dành riêng cho các trí thức miền Nam đã được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Võ Ba, người tham gia tổ chức lớp học này, kể: “Chính quyền tưởng rằng sau lớp học sẽ có được một tầng lớp trí thức của chế độ cũ yêu mến và phụng sự chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nếu như Marxism đã từng được các trí thức miền Nam quan tâm như là một môn khoa học thì giờ đây họ lại nghe những giảng sư miền Bắc nói về Marx hết sức giáo điều. Chưa kể, những người đứng lớp còn rao giảng với tư thế của người chiến thắng, tự tôn, tự đắc”. Những đảng viên tham gia lớp học như ông Võ Ba cũng thừa nhận: “Trước giới trí thức Sài Gòn, chính quyền đã thất bại ngay trong lần trình diễn đầu tiên”.

Chưa kết thúc lớp học, Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung, một giáo sư triết học nổi tiếng của Sài Gòn, một người được coi là “hằn học với Giáo hội”, đã coi cộng sản cũng là “một giáo hội”. Tiến sỹ Nguyễn Văn Trung cho rằng hình thức “kiểm điểm” mà cộng sản áp dụng trong sinh hoạt chính là một thứ “xưng tội man rợ”. Về đường lối, ông cho rằng: “Có thể có những điều Lenin nói đã đúng vào năm 1916, nhưng sau bảy mươi năm mà ta áp dụng là không lý trí”. Còn Giáo sư Châu Tâm Luân thì khi nghe các giảng sư miền Bắc say sưa nói về con đường “tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản” đã mỉa mai: “Sao không tìm hiểu xem sau chủ nghĩa cộng sản là gì để nhân tiện bỏ qua, mình bỏ qua luôn hai, ba bước”. Giáo sư Châu Tâm Luân lấy bằng tiến sỹ về kinh tế nông nghiệp ở Đại học Illinois, Mỹ, năm hai mươi lăm tuổi, trở về dạy cùng lúc ở hai trường đại học Minh Đức và Vạn Hạnh. Ông là một trong những trí thức phản chiến hàng đầu, bị chế độ Sài Gòn bắt giam đầu năm 1975 cho tới những ngày cuối tháng 4-1975 mới được Chính quyền Dương Văn Minh thả ra. Giáo sư Châu Tâm Luân là một thành viên của nhóm “sứ giả” được ông Dương Văn Minh phái vào trại Davis300 và được giữ lại ở đây cho đến trưa ngày 30-4-1975. Sau giải phóng, chính quyền xếp ông vào diện “người của ta”. Ông là đại biểu khóa I Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Về phía mình, Giáo sư Châu Tâm Luân cũng là một trong những trí thức kỳ vọng nhiều vào chế độ mới. Mấy tháng “sau giải phóng”, giá cả sinh hoạt tăng vọt lên, trong khi dân tình lo âu thì ông lại cho là giá tăng vì “tâm lý”, giống như cách giải thích thời ấy của chính quyền301. Sau khi cho rằng nhà nước không thể dùng ngoại tệ để nhập hàng như trước đây, Giáo sư Châu Tâm Luân viết: “Giờ đây không còn bọn tay sai đem máu của con em nhân dân đổi lấy đô la nữa thì cần phải tiết kiệmtối đa số ngoại tệ mà dân phải lao động đổ mồ hôi mới đem về được cho quốc gia… Vì vậy ngoài sự tiếp tay chánh quyền kiểm soát gian thương, chúng ta cũng cầnkềm hãm bớt kẻ địch ở ngay trong lòng mình…”302.

Khi trao cho Giáo sư Châu Tâm Luân nhiều trọng trách, Chính quyền nghĩ đơn giản ông là người “dùng” được. Nhưng, cũng như nhiều trí thức Sài Gòn, ông đã không hành xử như là một công cụ. Từ năm 1976, Giáo sư Châu Tâm Luân không được đứng lớp vì kiến thức kinh tế của ông là “kinh tế tư bản”, tuy nhiên, ông vẫn còn được để ngồi trong Hội đồng Khoa học của trường. Chỉ ít lâu sau, Đảng ủy trường nhận xét ông muốn “tranh giành lãnh đạo với Đảng”.

Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi ngạc nhiên, chế độ cũ hai lần giao chức cho tôi mà tôi có màng tới đâu”. Nhưng té ra vấn đề không phải là “ghế”, mà là những ý kiến của ông ở Hội đồng Khoa học luôn luôn khác với ý kiến của chi bộ. Trong một cuộc họp, khi nghe ông Đỗ Mười thao thao nói về “hợp tác hóa”, về chủ trương phải đưa những người bần cố nông lên làm lãnh đạo hợp tác và “phải đào tạo họ”, Giáo sư Luân hỏi: “Nhà nước định đào tạo trong bao lâu?”. Ông Đỗ Mười nói: “Tình hình gấp rút, đào tạo ba ngày”. Giáo sư Châu Tâm Luân nhớ lại: “Tôi bắt đầu ngao ngán vì muốn thay đổi thì phải bắt đầu từ cái đầu mà… những ‘cái đầu’ thì như thế”. Sau lần gặp ông Đỗ Mười, nhà kinh tế nông nghiệp Châu Tâm Luân được đưa về Viện Khoa học Xã hội.

Không chỉ có những đụng độ tại cơ quan. Ở Hội đồng Nhân dân, Giáo sư Châu Tâm Luân là trưởng Ban Nông nghiệp. Trong một phiên họp toàn thể thảo luận về các chương trình khoa học của Thành phố, sau khi nghe ông Luân tranh luận, một đại biểu trong Hội đồng mặc quân phục đứng dậy xin ngưng cuộc cãi vã, và lớn tiếng: “Các chuyên viên đã để ra rất nhiều thời giờ soạn thảo, đại biểu đó tư cách gì mà đòi sửa qua sửa lại”. Ông Luân cố dằn lòng: “Tôi xin ngưng cuộc thảo luận, bởi như vị đại biểu vừa nói, đã có các chuyên viên nghiên cứu cho chúng ta rồi thì chúng ta chỉ còn là chuyên viên giơ tay thôi”. Chủ trì phiên họp, ông Mai Chí Thọ không nói gì, chỉ yêu cầu biểu quyết. Nhìn thấy ông Luân không giơ tay, ông Mai Chí Thọ hỏi: “Ai không chấp thuận?”. Ông Luân cũng không giơ tay, ông nói: “Toàn thể chấp thuận, một phiếu trắng”.

Một số cán bộ cách mạng tốt bụng bắt đầu lo lắng cho vị giáo sư trẻ tuổi này, một trưởng Ban Đảng khuyên: “Tôi sáu mươi tuổi, người ta vẫn xem tôi như con nít, phải ăn nói thận trọng lắm. Anh nhớ, anh chỉ mới hơn ba mươi tuổi”. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tại diễn đàn của Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tôi đề nghị phải áp dụng ‘kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước’. Ông Xuân Thủy nghe, nói với tôi: ‘Anh phải có người đỡ đầu, anh về nói với Sáu Dân đi’. Tôi trả lời ông Xuân Thủy: ‘Nếu tôi nói đúng thì các anh phải nghe chứ sao lại cần người đỡ đầu?’.

Sau đó, ông Mai Chí Thọ nhắc: ‘Cậu đúng, nhưng áp dụng như vậy thì phức tạp quá, làm sao chúng tôi quản lý được. Muốn làm phải có những người như cậu. Mà nói thật chúng tôi chưa thể tin hoàn toàn những người như cậu’”.Theo ông Luân: “Những năm ấy, tôi chê ông Võ Văn Kiệt nhát, ‘xé rào’ là vá víu; phải ‘phá vỡ’ để áp dụng kinh tế thị trường chứ không thể phá những đoạn rào. Ông Mai Chí Thọ nghe, nhắc: ‘Phải giữ chính quyền trước hết, chính sách sai thì còn sửa được chứ mất chính quyền là mất hết’. Về sau tôi mới thấy ông Mai Chí Thọ đã nói rất thật lòng, họ đã ngủ rừng hàng chục năm để có chính quyền, làm sao họ để mất cái mà họ vừa giành được đó”.

Hai vợ chồng Giáo sư Châu Tâm Luân đều học ở Mỹ. Trước năm 1975, gia đình ông đã định cư ở một nước Bắc Âu, nhưng cả hai đều chọn con đường về nước. Sau năm năm cố gắng chòi đạp trong chế độ mới, ông không tìm thấy một cơ may thay đổi nào. Đầu năm 1979, ông vẫn còn được trả lời phỏng vấn các phóng viên nước ngoài, nhưng càng về sau thì không thấy nhà báo nào gặp ông nữa. Giáo sư Châu Tâm Luân nói: “Tôi bắt đầu có dự cảm bất ổn. Khi tình cờ gặp một vài phóng viên, nghe họ nói mấy lần đến Việt Nam xin gặp tôi đều được chính quyền trả lời là Giáo sư Châu Tâm Luân đang đi công tác xa. Tôi biết tôi đang dần dần bị cô lập”.

Dù từng hoạt động trong các phong trào chống đối dưới chế độ Sài Gòn, ông Huỳnh Kim Báu vẫn phải thừa nhận: “Trước 1975, mặc dù chính quyền bị coi là bù nhìn, nhưng trí thức vẫn được trọng dụng, họ có quyền thực sự trong chuyên môn. Sau giải phóng, chính quyền được nói là của mình nhưng trí thức gần như chỉ được dùng như bù nhìn, trong khi đa phần họ là những người khảng khái”.

Năm 1977, có lần hệ thống nước máy của Thành phố bị đục, ông Võ Văn Kiệt mời các nhà trí thức tới hiến kế. Nhiều người phát biểu, riêng ông Phạm Biểu Tâm ngồi im. Ông Kiệt hỏi: “Sao vậy anh Tâm?”. Ông Phạm Biểu Tâm nguyên là chủ tịch Hội Sinh viên Hà Nội trước 1945. Năm 1963, con gái Ngô Đình Nhu là Ngô Đình Lệ Thủy thi y khoa đã bị ông đánh rớt dù bị nhà Ngô gây áp lực. Ông là một nhà giáo được sinh viên kính nể. Ông Tâm được nói là rất quý ông Kiệt, nhưng có lẽ do quá bị dồn nén, ông đứng dậy nói: “Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức khỏe, vì cái gì cũng đã có mấy anh nghĩ hết. Nước là chuyện mấy anh đâu phải chuyện tụi tui”.

Một thời gian sau, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ trả lại chức hiệu phó. Trường sợ mang tiếng không nhận, ông khóa phòng, giao chìa khóa, tự chấm dứt vai trò “chim kiểng” của mình. Theo ông Võ Văn Kiệt, Thành ủy vẫn để Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hàng năm sang Pháp dạy học. Trong một lần đi Pháp, ông ở lại luôn bên đó rồi viết thư về cho ông Kiệt nói rằng, công việc nghiên cứu nhiều, ông cần phải ở nơi có phương tiện cho ông làm việc, khi nào đất nước thực sự cần, ông sẽ về.

Còn Giáo sư Châu Tâm Luân, nhân một buổi tối rủ ông Võ Ba tới nhà chơi, đã đưa cho Võ Ba coi một tập đánh máy hai mươi trang về “tình hình kinh tế nông nghiệp miền Nam”, rồi nói: “Võ Ba ơi, mình rất mừng vì bản báo cáo này của mình đã được Mặt trận Tổ quốc đánh máy gởi đi. Hai lần trước thì họ không chịu đánh máy. Nhưng, Võ Ba ạ, họ đánh sai hết, những thuật ngữ như ma trận họ đánh thành mặt trận ông ạ”. Mấy hôm sau, Võ Ba chạy qua nhà Giáo sư Luân thì thấy cửa đóng, bên trong thấp thoáng bóng mấy công an đến “chốt nhà”. Cho dù, sang tới Thái Lan ông bị các thuyền nhân khác đánh rất đau, khi viết thư về, trả lời câu hỏi của ông Huỳnh Kim Báu, “liệu vượt biên có phải là một quyết định sai lầm”, Giáo sư Châu Tâm Luân vẫn cả quyết: “Không, Báu! Dù phải trả giá đắt, mình vẫn thấy đi là đúng”.

Trong số các trí thức miền Nam, ông Võ Văn Kiệt “xếp” Giáo sư Châu Tâm Luân vào hàng “khó tính”. Tuy nhiên, ông kể: “Đến nhà Châu Tâm Luân mình rất thích vì ảnh thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, có khi như búa bổ. Ảnh hy vọng khi đất nước hòa bình, với sự phì nhiêu của đất đai miền Nam, sẽ có dịp thi thố giúp phát triển nền nông nghiệp. Nhưng một thời gian sau, thấy cơ chế như thế thì không thể nào đóng góp được”.

Một người khác từng quen biết Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt nhưng cũng phảivượt biên là Kỹ sư Phạm Văn Hai, giám đốc nhà máy dệt Phong Phú. Ông Phạm Văn Hai là người đưa kỹ nghệ nhuộm vào miền Nam. Ông có hai người con, một người được đặt tên là Phạm Chí Minh, một người là Phạm Ái Quốc. Sau ngày 30-4, ông Phạm Văn Hai vẫn nhiệt tình tư vấn để phục hồi ngành dệt và nghiên cứu chất kích thích cây cỏ. Nhưng năm 1977 ông quyết định “đi”. Vượt biên hai lần, cả hai lần đều bị bắt. Lần đầu bị bắt ở Kiên Giang, Thành ủy lãnh. Lần hai, bị bắt ở thành phố, ông Võ Văn Kiệt vào thăm, ông Hai nói: “Cho dù anh quan tâm nhưng như thế này thì không làm được”. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Những người như Kỹ sư Phạm Văn Hai, như Giáo sư Châu Tâm Luân…, nếu chỉ khó khăn về cuộc sống họ sẽ vượt qua, nhưng nếu bị đặt vào hoàn cảnh không thể đóng góp thì họ không chịu được. Tôi cũng không biết làm gì hơn, chỉ đề nghị mấy ảnh đừng vượt biên nguy hiểm”.

Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Tôi tiếc đứt ruột khi để những anh em trí thức ấy ra đi, nhưng biết là nếu họ ở lại thì cơ chế hiện thời cũng chưa cho phép mình sử dụng họ”. Trước khi vượt biên, ông Dương Kích Nhưỡng, một công trình sư cầu cống, thủy điện, nói với ông Võ Văn Kiệt: “Ước mơ của các anh rất đẹp, nhưng các anh làm như thế này là không được. Đi đâu cũng nghe nói tới nghị quyết, làm cái gì cũng chỉ theo tinh thần nghị quyết này, chủ trương kia thay vì theo pháp luật. Trị nước mà bằng nghị quyết và chỉ thị chung chung thì không được”.

Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước Huỳnh Kim Báu nhớ lại: ông Kiệt biết là các trí thức bắt đầu vượt biên, ông gọi tôi lên và dặn “Nghe ngóng, nếu có anh em trí thức bị bắt ở đâu, anh phải lãnh về”. Khi nhận được tin công an Bình Thuận bắt giam Kỹ sư Dương Tấn Tước, ông Kiệt cấp giấy cho ông Báu ra Bình Thuận xin “di án về Thành phố”. Ông Báu kể: “Công an Bình Thuận thấy giấy của Thành ủy thì cho nhận ‘can phạm’. Nhưng khi anh Tước thấy tôi mừng quá định kêu lên, tôi đã phải giả vờ làm mặt lạnh, bước tới, còng tay anh Tước. Dọc đường, tôi cứ phải làm thinh mặc cho Kỹ sư Dương Tấn Tước ngơ ngác. Qua khỏi Bình Thuận, tôi mới mở còng và giải thích: Công an Bình Thuận mà biết, người ta chụp đầu cả tôi”.

Đích thân ông Kiệt cũng nhiều lần đến các trại giam để bảo lãnh các trí thức.

Theo ông Phạm Văn Hùng và Nguyễn Văn Huấn, hai người giúp việc thời đó của ông, hình thức “xử lý” đối với những trí thức vượt biên của “Anh Sáu Dân” là kêu tụi tôi đích thân đi làm lại hộ khẩu và sổ gạo cho họ. Nhưng phần lớn các trí thức đã ra đi lặng lẽ. Giáo sư Châu Tâm Luân kể: “Tôi đi tất cả sáu lần. Lần bị giữ lâu nhất là ở Rạch Giá, cả tháng trời. Nhưng tôi không khai mình là ai. Như bốn lần trước, ở nhà cứ lo một cây vàng thì được thả”.

Có những người không chịu nhờ Thành ủy, hoặc “lo” bằng vàng. Theo ông Huỳnh Kim Báu, khi vượt biên bị bắt, Giáo sư Lê Thước đã tự sát.

Đến “thường dân”

Sau ngày “giải phóng”, dồn dập các sự kiện xảy ra trên khắp miền Nam: hết sỹ quan, công chức bị đưa đi “học tập”, đến cải tạo tư sản, đến đổi tiền rồi đưa dân đi kinh tế mới. Người dân miền Nam vừa chịu cảnh gia đình ly tán, vừa bắt đầu phải đứng xếp hàng mua những thực phẩm vốn chưa bao giờ thiếu ở vùng đất màu mỡ này.

Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ303 kể: “Ba tháng sau ngày 30-4, cha tôi mất sau khi nhìn cảnh đời thay đổi khác hẳn với những gì mà ông chờ đợi. Cảnh nhà đơn chiếc sau khi ông anh thứ hai của tôi di tản, hai ông anh còn lại bị đưa đi cải tạo. Mẹ tôi rơi vào khủng hoảng. Những người bà con từ Nghệ An vào đều hỏi tôi đúng một câu: chúng mày có ăn học tại sao lại không đi Mỹ. Những người giữ chức vụ lớn trong chính quyền dạy chủ nghĩa cộng sản, trước đám đông nói khác, nhưng ngồi trong gia đình thì không giấu được khi nói về một miền Bắc xã hội chủ nghĩa điêu tàn. Họ cảnh cáo tôi về những chuyện đấu tố sắp xảy ra. Trong tổ dân phố của tôi cũng bắt đầu ám chỉ việc gia đình có người đi Mỹ, nhà cho Mỹ mướn, con có liên hệ đến Nguyễn Văn Thiệu… Mẹ tôi nghe rồi trở bệnh”.

Nhưng điều mà một bác sỹ như ông Nguyễn Đức Tuệ cảm thấy đụng chạm trực tiếp tới mình là khi chứng kiến chính trị chen vào mọi mặt. Những buổi học tập chính trị, những buổi họp tổ là dịp để các bác sĩ thiếu tay nghề bù đắp bằng cách cố tranh đấu được đứng vào “hàng ngũ Đảng”. Phương châm “hồng thắm hơn chuyên” đã khiến cho trình độ y khoa của các bác sĩ ngày càng đi xuống. Bác sỹ Tuệ kể: “Trong những buổi sáng giao ban ở bệnh viện Bình Dân, chúng tôi đã phải ngồi chịu trận nghe các đồng chí y sĩ từ rừng ra răn dạy các thầy tôi như đại Giáo sư Phạm Biểu Tâm, Giáo sư Trần Ngọc Ninh! Bệnh viện Bình Dân, nơi tôi làm việc, vốn là một bệnh viện nổi tiếng về giải phẫu, càng ngày càng thiếu thuốc men phương tiện, các cuộc mổ xẻ thiếu thuốc mê và thiếu dụng cụ”.

Sau vụ “nạn kiều”, chiến tranh lại xảy ra ở hai đầu đất nước. Giặc giã, đói kém, sự sợ hãi đến từ cả bên trong lẫn bên ngoài, khiến cho lượng người vượt biên tăng vọt trong khoảng cuối năm 1979, đầu năm 1980. Một trong những người bắt đầu vượt biên sau chiến tranh là Lục Phương Mai.

Cha Mai, ông Lục Văn Sáu, là một kỹ sư Tây học nổi tiếng trong ngành xây dựng, gia đình có nhiều người nắm những chức vụ có nhiều quyền lực trong chế độ Sài Gòn, nhưng vợ ông Sáu lại là Việt Cộng. Anh em Lục Phương Mai không thể nào di tản theo các thành viên khác của đại gia đình vì vào đúng chiều 28-4-1975 thì ông Lục Văn Sáu mất. Khi đó, mẹ Mai vẫn còn đang bị chính quyền Sài Gòn giam trong một nhà tù ở Thủ Đức. Sáng 30-4-1975, khi anh chị em Mai đang cúng “mở cửa mả” cho cha thì “Việt Cộng vô”, mẹ Mai một mình lê lết đi bộ ra khỏi nhà tù. Mãi tới khoảng 3 giờ chiều mấy anh em mới tìm thấy mẹ.

Ba mươi tháng Tư, với gia đình Mai, không phải là một ngày đoàn tụ, và những ngày tiếp theo thì còn khốn khổ hơn nhiều. Trước đây, ngoài thu nhập của ông Lục Văn Sáu, gia đình còn có thể sống phong lưu nhờ vào khoản tiền mà cuối thập niên 1960 chính quyền ông Nguyễn Văn Thiệu trả cho ông nội Mai, địa chủ Lục Phương Giản, sau khi trưng mua ruộng đất của ông để thực thi chính sách “người cày có ruộng”. Sau 30-4-1975, khoản tiền nằm trong ngân hàng Việt Nam Thương Tín ấy không còn giá trị.

Mẹ Lục Phương Mai dù có công nuôi giấu nhiều cán bộ cao cấp của Cách mạng, nhưng khi ra tù thì cũng không còn sức để nhận được bổng lộc, chức tước gì. Mấy cô tiểu thư họ Lục bắt đầu nhìn những “con phe” tới nhà khênh ra từng chiếc tủ lạnh, cây đàn. Năm 1979, anh rể Lục Phương Mai là Thượng sỹ Hải quân Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Ngọt, một “chuyên gia tổ chức vượt biên”, thu xếp để mấy chị em ra đi.

Vượt biên khi ấy là lối thoát của những gia đình đã từng dính dấp tới “ngụy” như Thượng sỹ Trần Văn Ngọt. Trong khi những người vợ sỹ quan đi học tập phải son sắt đợi chờ thì con cái họ được gửi lên những chiếc “thuyền” của bạn bè. Theo ông Phan Lạc Phúc: “Khi tôi đi cải tạo, con gái út tôi mới có năm tuổi. Khi tôi về nó đã mười lăm tuổi, bắt đầu thiếu nữ. Các chị nó vượt biên hết cả chỉ còn nó ở lại với mẹ cháu đợi tôi”.

“Ra đi” cũng là một quyết tâm mãnh liệt của những người trở về từ các trại cải tạo. Mặc dù ai ra trại cũng được nhận xét trong tờ lệnh là “đã nghiêm chỉnh chấp hành chính sách cải tạo khoan hồng độ lượng của Đảng và Nhà nước”, nhưng họ bắt đầu cảm thấy mình lại đang bước vào một nhà tù lớn hơn, bởi trên thực tế, họ vẫn không thực sự có tự do. Cả con cái và gia đình đều không nhìn thấy tương lai. Không có một chỗ đứng nào cho họ ở trong chế độ.

Năm 1977, ông Vượng304 được ra khỏi trại cải tạo. Sau khi trình diện ở phường, ông được một sỹ quan an ninh “rất dễ thương” tới gặp và yêu cầu hợp tác. Công việc tưởng như đơn giản: Mỗi tuần một lần báo cáo gặp ai, đi đâu, có ai từng là tình báo của chế độ cũ mà trốn học tập không. Ông Vượng nói: “Tôi hợp tác một tháng để không gây nghi ngờ rồi trốn khỏi Sài Gòn và từ lúc đó bắt đầu tìm đường vượt biên”. Không tính một lần có ý định vượt biên qua ngả Campuchia, bốn lần khác bị lộ trước khi lên thuyền nên chỉ kịp chạy thoát thân, đến lần thứ sáu ông Vượng mới tới được Malaysia.

Tháng 2-1985, họa sỹ Chóe trở về sau gần chín năm nằm sàn xi măng ở số 4 Phan Đăng Lưu và lao động giữa rừng Gia Lai, bệnh phong thấp và bệnh tiểu đường bắt đầu nặng thêm. Nhưng sức khỏe không phải là thứ có thể dễ dàng quật ngã con người khát khao làm việc của Chóe. Từ một cây cọ phản chiến, ông giờ đây phải “đeo” tờ giấy xác nhận thành phần là “văn nghệ sỹ phản động”. Bà Kim Loan, vợ ông, nhớ lại: “Không có công ăn việc làm, ông ấy càng ngày càng phẫn uất rồi trở thành u uất”. Một trong rất ít người tới thăm họa sỹ Chóe lúc bấy giờ là Huỳnh Bá Thành, nhưng Chóe từ chối tất cả những đề nghị giúp đỡ của Thành, kể cả việc nhập lại hộ khẩu305.

Ngày 7-4-1976, khi an ninh tới tòa soạn tờ Lao Động Mới306 bắt Chóe, ông Tổng Biên tập Tống Văn Công nói với người chỉ huy tên là Đô: “Tôi thấy Chóe làm bất kể giờ giấc, anh ấy muốn đóng góp, muốn hòa nhập. Tôi xin lấy sinh mạng chính trị của mình ra đảm bảo”. Ông Đô liền nói: “Anh biết gì mà đảm bảo”.

Năm 1985, Chóe đến nhà Tống Văn Công: “Bạn bè cũ tránh tôi như hủi, anh có dám tiếp tôi không?”. Họ ngồi với nhau rất lâu, cho dù Chóe không nói ra nhưng ông Công biết người họa sỹ tài ba này đang bế tắc, ông nói: “Mình tự thấy không đủ tư cách khuyên Chóe điều gì, vì chín năm trước mình đã không bảo vệ được bạn. Mình chỉ góp ý, nếu đi thì đi chính thức, vượt biên nguy hiểm lắm”. Sau lần gặp ấy, Chóe biến mất. Gần hai năm sau, một ngày đầu tháng 8-1987, Chóe đột ngột xuất hiện trước mặt Tống Văn Công, áo quần nhếch nhác. Tống Văn Công chưa kịp hỏi, Chóe đã nói: “Mới ra tù. Hồi đó, tôi vượt biên, bị bắt”.

Sau gần mười năm ở Khám Chí Hòa, năm 1985, nhà báo Đoàn Kế Tường cũng được ra tù. Mặc dù biết vợ ông đã bán nhà, vượt biên, quyết định tha của Trại vẫn trả ông về căn nhà ở đường số 2, làng Báo Chí Thủ Đức. Ông Tường về, bấm chuông, một người phụ nữ trung niên ra mở cửa nhìn ông ái ngại, nói: “Căn nhà này xui lắm, em tù tội, lại bị vợ bán nhà bỏ đi. Chồng chị đi kháng chiến về, chị mua nhà này ở chưa được bao lâu thì ổng bỏ chị đi lấy vợ khác. Thôi, nếu không có chỗ nào để về thì cứ ở đây với chị”. Đọc được sự chia sẻ khá chân thành của người chủ mới, nhưng ông Đoàn Kế Tường chỉ cám ơn rồi về nhà chị gái mình.

Bà chị gái thương em, nhưng trong cái không gian chính trị ngột ngạt lúc đó, chứa trong nhà “một thằng tù phản động” như Tường là điều không phải dễ dàng, nhất là mấy đứa con của bà chị đã có mấy năm “hòa nhập vào chế độ mới”. Bà chị dặn: “Cậu nên ra khỏi nhà lúc 5 giờ sáng và về sau 11 giờ, đừng để công an khu vực nó thấy thằng cậu đi tù về, khó cho mấy đứa”.

Vào đúng rằm tháng Tám năm 1985, Đoàn Kế Tường nhảy xe Kamaz lên Đaklak. Trời tối, mưa như trút, Tường lang thang từng rẫy cà phê xin việc. Ông kể: “Tờ giấy tùy thân duy nhất mà tôi có là giấy ra tù, không ai dám nhận. Đến nửa đêm thì gặp rẫy của một thiếu tá cảnh sát đi học tập về, ông nhận. Ông cựu thiếu tá dựng cho

tôi một cái chòi trên hai mẫu cà phê đang phục hóa. Cực nhọc nhưng dù sao cũng có việc làm. Được ít lâu thì anh Trần Hữu Thọ con trai Đại tá Việt Nam Cộng hòa Trần Hữu Dũng đi qua thấy tôi khổ quá, kêu về nhà ông ở cùng, ngày làm rẫy, tối dạy học cho mấy đứa con của anh”. Làm được gần một năm thì, một buổi sáng, ông Thọ ra phố ăn sáng về kể, đội Cảng Sài Gòn lên đá ở Buôn Mê Thuột, ông gặp huấn luyện viên Tam Lang ở đó. Tường buột miệng: “Tam Lang là bạn tôi”. Sáng hôm sau, ông Thọ lại ra phố thuật lại với Tam Lang, Tam Lang xác nhận: “Mai nếu anh lại ra thì đưa nó đi cùng cho tôi gặp”. Gặp nhau, Tam Lang khuyên Tường: “Sài Gòn thiếu gì việc. Về đi, ở đây làm gì”.

Sài Gòn đúng là có rất nhiều việc, nhưng tù phản động như Đoàn Kế Tường thì cho dù trình độ cỡ nào, lúc đó cũng chỉ có thể đạp xích lô. Một người bạn giới thiệu với Hội thánh Tin Lành để nơi này cho mượn một chiếc xích lô, Tường và một người bạn chia nhau đạp. Đoàn Kế Tường kể: “Sau đổi tiền, kinh tế càng xuống tận đáy, ăn còn không đủ lấy đâu tiền đi xích lô”. Đấy là những năm Sài Gòn đầy những ông đạp xích lô trong khi ngóng khách ở các ngả ba, ngả tư, tranh thủ đọc các cuốn sách tiếng Anh, tiếng Pháp. Nhiều người trong số họ cũng vừa mới đi tù về.

Ông Tường kể: “Một bữa dong xe cả buổi mà không có người khách nào, tình cờ gặp thằng bạn thân chạy chiếc Honda tới. Tôi muối mặt hỏi: Tao đói quá, mày cho tao xin mười đồng. Thằng bạn nói đợi chút tao quay lại. Tôi đợi tới trưa không thấy. Về nhà, bà chị cho một lượng vàng, bảo vượt biên đi”.

Đoàn Kế Tường xuống Cà Mau, tham gia vào chuyến vượt biên do một cựu tù cải tạo, ông Nguyễn Thụy Quế, tổ chức. Ông Tường kể: “Chúng tôi lên một chiếc ghe chở heo chạy từ Năm Căn ra Ngọc Hiển. Gặp con nước ròng, ghe phải tấp lại chờ.

Trên bờ, từ một quán cà phê, bài hát Quê Hương307 cứ được phát lặp đi lặp lại. Năm ấy, Quê Hương nổi như cồn, tôi ở Sài Gòn nghe, nghĩ: tào lao. Nhưng lúc chuẩn bị rời quê hương, tự nhiên xúc động quá. Tôi trốn ghe quay về, chị tôi chửi quá trời. Tôi chủ động tìm gặp Đỗ Trung Quân tính khen. Không ngờ Quân bảo: em mắc nợ anh, anh đi thì tốt hơn. Khi đó tôi chưa hiểu hết lời Quân nói”.

Những ngày sau đó của Đoàn Kế Tường là ra ga Hòa Hưng xếp hàng để sau đó bán chỗ cho người đi tàu mua vé; đêm thì cho khách đợi tàu thuê chiếu và bán cho họ vài xô nước rửa mặt. Theo ông Tường, điều đó vẫn chưa phải là bi kịch. Một dịp trước ngày 30-4 năm 1987, như thường lệ, công an “truy quét tệ nạn xã hội”, bắt

tất cả về công an Quận 3. Sáng hôm sau, công an sàng lọc, ai có chứng minh thư, có hộ khẩu thành phố thì cho về, ông Tường chỉ có giấy ra trại thì bị giữ lại để chuẩn bị đưa đi tập trung cải tạo.

Ông Tường kể: “Đang đứng xớ rớ trong sân công an Quận 3 thì thấy Huỳnh Bá Thành308 chạy xe Vespa vô. Anh ta dừng lại trước trước đám can phạm. Tôi cúi mặt xuống tránh. Lúc sau, ngẩng lên thấy ông vẫn nhìn trừng trừng, rồi hỏi: Đoàn Kế Tường à? Có lẽ thấy tôi tàn tạ quá, Huỳnh Bá Thành khóc, bảo công an tha tôi rồi

cho tôi năm mươi đồng, dặn: mai mốt qua báo Công An gặp tao, có cả thằng Từ Kế Tường nữa. Tôi về, vào chùa Liên Trì gặp nhà sư Thích Không Tánh, hỏi nên không, nhà sư gật đầu rồi nói: Tao đã phản động, thêm mày phản động nữa, cái chùa này sẽ không phật tử nào dám đến. Thầy Thích Không Tánh lúc ấy cũng chỉ mới ra tù”. Ông Tường kể tiếp: “Tôi lên, Huỳnh Bá Thành mua cho hai bộ quần áo rồi hỏi:

‘Ông muốn đi thì tôi lo cho đi’. Tôi nói không, lúc này không vì bài Quê Hương nữa mà vì không muốn lại bị tù đày. Thành nói: ‘Ông có một tuần để suy nghĩ’. Một tuần sau tôi cũng nói không đi. Thành hỏi: ‘Muốn làm báo lại không, tôi đang cần những người có nghề’. Tôi nhận lời. Rồi Thành thu xếp dẫn tôi tới gặp ông Mai Chí Thọ309, nhân một lần ông Thọ vào Sài Gòn. Sau khi ông Thành giải thích, ông Thọ hỏi: ‘Chú mày dám bảo lãnh không?’, ông Thành nói: ‘Dám’. Ông Thọ kêu người đem giấy bút ra cho Thành cam kết. Thế là tôi trở thành người của Công an Thành phố Hồ Chí Minh, một tờ báo đang ăn khách lúc đó”.

Bài báo đầu tiên đăng lên, tôi ký Đoàn Thạch Hãn nhưng bạn bè cũ vẫn biết đấy là tôi. Chị tôi mừng vì ngoài chuyện tôi có công ăn việc làm, từ một thằng tù phản động, tôi trở nên có thế ăn thế nói trong chế độ. Nhưng ngay sáng hôm báo ra,

Đinh Viết Mâu, cựu thiếu úy biệt kích, là bạn thân trong Chí Hòa, đạp xe tới nhà chị tôi. Mâu lặng lẽ bước vào tát vào mặt tôi hai tát rồi nói: ‘Thằng phản bội’. Rồi, giữa trời mưa như trút, Mâu đạp xe đi luôn. Tôi đưa bài báo cho ông Khai Trí310, một bạn tù khác, ông nói: “Cậu viết không có gì xấu nhưng tôi đọc có cái cảm giác như cậu đang cầm quạt lông ngâm Kiều của Nguyễn Du trong động đĩ”.

Ông Tường kể tiếp: “Có lẽ những người ca ngợi sự kiên cường của tôi khi còn ở trong Chí Hòa muốn tôi mãi mãi là người hùng trong mắt họ. Còn những người ở phía khác thì cũng nhìn tôi khinh miệt như nhìn một kẻ chiêu hồi. Khi nghe Đỗ Trung Quân nói ‘em mắc nợ anh, anh nên đi’, tôi chưa hình dung hết. Càng về sau, tôi càng hiểu vì sao phần lớn những người tù như tôi phải tìm lối thoát bằng cách vượt biên”.

Năm 1982, ngay sau khi ra khỏi trại cải tạo, Trung úy Trần Quang Phước lo cho cả gia đình gồm mười bốn người vượt biên. Khi vừa ra cửa biển thì một lốc máy tàu bị hỏng. Chủ tàu đề nghị mọi người gom tiền để họ vào bờ mua phụ tùng sửa máy. Ai dè họ đi luôn. Mấy giờ sau thì tàu công an ra. Người tài công cố cho thuyền chạy bằng lốc máy còn lại. Trần Minh Triết, con trai ông Phước, năm ấy mười sáu tuổi, nhớ lại: “Một loạt đạn bắn thẳng vào buồng lái, xác người tài công văng xuống biển”. Sau một thời gian chờ thanh lọc, vợ con ông Phước cũng như những đứa trẻ khác, chỉ bị giam hai ngày rồi được tha về. Ông Phước bị giam tại trại giam Trần Phú.

Trần Minh Triết kể: “Một hôm, tôi đang thụt bida thì bà già sang, ngoắt ra, dắt đi ngay lên chùa Tĩnh Hội, Nha Trang. Đi không kịp mang quần áo. Mấy thầy chùa đưa về xóm Bóng gửi chờ bắt tàu vô Sài Gòn. Lúc đó mới hay, ông già trong khi được ra khỏi buồng giam đã tìm cách trốn trại. Từ đó, hai anh em tôi mỗi đứa được gửi một nơi, hai ông bà già cũng trốn chui, trốn nhủi. Cả nhà hiếm khi mới được

gặp nhau. Dượng tôi đi tập kết về, là bác sỹ một bệnh viện lớn quen biết rất nhiều những người trong chế độ mới, nhưng cũng không thể giúp gì hơn. Một hôm ông bảo với ba má tôi: Anh nghĩ các em nên đi, ở đây sống không nổi đâu”.

Nữ nhà văn Nhã Ca chỉ bị tù hơn một năm. Nhưng trong thời gian hai vợ chồng bà ngồi tù, chính quyền địa phương đã trục xuất ba người con của bà ra khỏi nhà.

Căn biệt thự của ông bà trên đường Ngô Tùng Châu, Bình Thạnh, bị chính quyền lấy giao cho hợp tác xã mây tre lá. Ra tù, Nhã Ca đưa các con về nhà bà ngoại ở số 142 Tự Do. Bà chỉ định buôn bán làm ăn, nuôi con và chờ chồng – nhà thơ Trần Dạ Từ – đang bị đưa đi “cải tạo” trên trại Gia Trung. Nhưng áp lực đến với gia đình bà càng ngày càng thêm dồn dập.

Năm 1977, hai đứa con của bà, một mười bốn tuổi, một mười một tuổi, bị đuổi khỏi Nhạc viện Thành phố. Năm 1978, ngôi nhà dùng làm cửa hàng ở số 142, bấy giờ gọi là đường Đồng Khởi, bị niêm phong. Bị ép và lo sợ bị “xe cây” tới nhà “hốt đi kinh tế mới” như số phận của nhiều nhà tư sản khác, nửa đêm, Nhã Ca phải đưa các con về Cần Thơ ở nhờ nhà người thân. Bức bối và bế tắc, Nhã Ca đã phải để cho ba đứa con lên tàu vượt biên. Chuyến đi bất thành. Cả ba con của bà bị bắt. Trước khi tới biển

Thời ấy, thường có hai dạng tổ chức vượt biển – tự túc, nghĩa là không dính líu gì đến công an, và mua bãi. Dạng thứ nhất thường gặp nguy hiểm hơn lúc xuống tàu rời đất liền. Mọi thứ đều lén lén, lút lút trong màn đêm. Những người này thường chọn những đêm không trăng, và chấp nhận bị bắt bất kỳ lúc nào. Dạng thứ hai, thường được mấy người tổ chức móc nối, sắp xếp ngày giờ trùng với ca trực của “tay trong” để đưa người xuống tàu. Không có dạng nào là chắc chắn, nhưng những người đã “móc nối” thì khả năng bị công an xông ra từ trong các lùm cây là ít hơn.

Không phải ai cũng có tiền có vàng để đóng cho các chủ tàu: “đĩ điếm” thì coi như đã hết thời sau ngày 30-4-75; những “gia đình ác ôn” không phải đi học tập thì trước đó không phải ai cũng có chức tước tiền bạc; những người mà chồng con đang ở trong trại thì còn phải mang gánh nặng thăm nuôi – đối với nhiều người vợ tù, nước có thể bỏ nhưng chồng trong trại giam thì không thể.

Trở lại câu chuyện của Thượng sỹ Trần Văn Ngọt và cô em vợ của ông, Lục Phương Mai. Ngày 7-6-1979, từ nhà, mấy chị em, dì cháu Mai đi xích lô máy ra bến xe miền Tây rồi đi xe đò xuống Tiền Giang. Họ “ém” trong nhà một nông dân, chờ đêm ập xuống thì nhảy lên một chiếc xuồng con chạy ra ghe lớn đang đậu chờ ngoài cửa sông. Theo dự kiến, 12 giờ đêm chiếc ghe lớn ấy sẽ bắt đầu hành trình. Nhưng khi vừa thấp thoáng thấy cửa sông thì bỗng từ trong bờ dừa nước, một chiếc bo bo xé nước phóng ra, ép sát con xuồng. Thượng sỹ Trần Văn Ngọt chưa kịp phản ứng đã ăn một báng súng khuỵu xuống. Tất cả trai tráng lẫn đàn bà con gái bị đưa về trại giam Tiền Giang. Ngay trong đêm, đoàn bị chia hai: nam một bên, nữ một bên. Và lập tức, quản giáo quát: “Cởi áo ra”; rồi, “Cởi quần ra”; rồi, “Cởi luôn quần lót”. Quần áo, giày dép đều bị sờ nắn tới từng đường chỉ.

Trước khi ra đi, những người vượt biên đều đã dự liệu tình huống này nên khi chiếc bo bo vừa phóng ra, hạt xoàn, vàng, đô la đều đã bị ném không thương tiếc

xuống nước. Với nhiều người, “thà để cá ăn, dứt khoát không để vàng bạc rơi vào tay Việt cộng”. Nhưng Lục Phương Mai vẫn cố giữ lại hai lượng vàng. Trước khi cởi đồ, chị lén lút chuyển hai lượng vàng ấy cho cô cháu gái tên là Thùy, Thùy chuyền cho em gái là bé Tí Hương, năm ấy mới lên sáu tuổi không bị quản giáo để ý. Tí Hương nhét vàng vào bụng để rồi khi mấy dì cháu về buồng giam liền đưa lại cho dì giấu trong một tuýp thuốc đánh răng.

Chín anh em, dì cháu nhà Lục Phương Mai nằm khoảng hơn một tháng thì được mẹ viết thư lên Quận ủy “nhận lỗi là đã không giáo dục tốt con em để chúng nó làm điều sai quấy”. Xét gia đình “có công với Cách mạng”, mấy chị em Mai được tha, riêng Thượng sỹ Trần Văn Ngọt thì bị kêu án ba năm tù311.

Nếu như chiếc thuyền vượt biên của Lục Phương Mai bị chặn ngay từ cửa sông thì thuyền của chị em nhà Ngô Hồng Ngọc312 lại đã đi được nhiều giờ trên biển.

Ngày 26-12-1983, Ngọc, lúc đó hai mươi ba tuổi, vượt biên cùng với một đứa em, hai người dì và bốn chị em họ khác. Ngô Hồng Ngọc kể: “Chúng tôi được đón bằng xe buýt lớn, giống như một đoàn người hành hương, được đưa tới lăng Ngọc Hà – Bà Rịa, vào một nhà dân đợi tới đêm thì lên một thuyền nhỏ. Chiếc thuyền taxi này chạy khoảng một giờ thì tới địa điểm đón, từ đó chúng tôi được đưa vào một thuyền đánh cá.

Chiếc thuyền nhỏ này – ngang khoảng 2,5m, dài 15m – do sáu gia đình hùn tiền:

Gia đình bác sĩ Vận cùng vợ và hai con trai nhỏ (bác sĩ Vận và vợ là y sĩ, họ có trách nhiệm lo sức khỏe cho mọi người cùng đi); một người hoa tiêu cùng gia đình; ông tài công cùng ba gia đình chúng tôi. Thế nhưng, khi được đưa vào thuyền lớn, một nhóm người đông hơn cả số đóng tiền, ém sẵn trước ở đấy, nhân lúc lộn xộn, cùng lên tàu. Thế là con tàu phải chở tới 126 người, lớn, bé, già, trẻ. Từ các tai mắt ở khu vực cho đến lực lượng thường xuất hiện ngoài “bến bãi” đều được “lo bao”, lại đi vào dịp cận Tết, nên việc khởi hành diễn ra suôn sẻ”.

Ngô Hồng Ngọc kể tiếp: “Hai chị em tôi được mẹ đưa cho một túi sâm cắt lát với lời dặn, lúc khát và mệt thì lấy ra ngậm. Mẹ cũng may lẫn trong gấu áo, gấu quần tôi 1 số tiền đô la Mỹ, trên tay đeo bốn nhẫn nhỏ loại một chỉ, với hi vọng khi tới đảo có thể dùng liên lạc về cho bố mẹ. Xuống thuyền, đàn bà và trẻ em được đưa vào dưới boong, chúng tôi nằm chen chúc lên những thanh gỗ đan vào nhau quét đầy nhựa đường. Mỗi đợt sóng đánh, ruột gan ai nấy quặn lên và ói. Em gái nhỏ của tôi đói và khát, những miếng sâm nhỏ mẹ cho chúng tôi đã nhấm hết mà vẫn không hết mệt. Anh Lê, một người bạn của gia đình tôi, phải đi ‘ngoại giao’ để mang về từng bát nước cháo cho chúng tôi chia nhau. Ngày thứ ba trên biển, lâu lâu anh Lê dìu hai chị em tôi lên boong để hít thở chút ít rồi phải quay lại hầm tàu”.

Ngày thứ tư, thuyền bị cháy máy do tài công ngủ quên, cậu con trai châm nhớt không kịp. Một người em họ của Ngô Hồng Ngọc, Ngô Quang Hưng313, năm ấy mới hơn mười tuổi, nhớ lại: “Trong mấy ngày đêm lênh đênh trên biển, mọi người cố lấy chăn mền căng ra làm buồm, cố ra được ngoài hải phận quốc tế. Có những đêm, nhìn thấy đèn tàu lớn ở phía xa, mọi người kêu gào, dùng đèn pin đánh tín hiệu

SOS kêu cứu nhưng tàu lớn vẫn không vào. Có hôm, thấy máy bay bay ngang đầu, lại hò hét, lại hy vọng. Một chị đi tiểu trong cái ‘toilet’ được khoanh bằng một tấm bạt sát bên mạn thuyền, bị sóng đập rơi xuống biển… Cứ đêm đến là lại nghe tiếng sóng dập hòa lẫn với những lời cầu nguyện”. Theo Hồng Ngọc: “Thuyền càng lắc mạnh tôi càng nắm chặt tay em gái, chúng tôi chỉ muốn sống chết có nhau. Xung quanh, con gọi cha mẹ, vợ kêu chồng… Không ai còn hy vọng tới bến bờ tự do mà chỉ còn hy vọng sống”.

Cuối cùng, mọi người thở phào khi nhìn thấy đảo. Nhưng khi con thuyền dạt vào cách đảo chừng 300m thì bị đâm vào đá ngầm, thủng đáy. Mọi người bò hết lên boong. Dân đánh cá và một số người bơi giỏi thì nhảy xuống để bơi vào bờ thoát thân. Ngô Quang Hưng kể: “Khi nhảy xuống, bác sỹ Vận bị bánh lái tàu đập vào đầu, chết. Cái chị đi toilet rơi xuống biển đêm trước, khi ở ngoài khơi thì cứu được, lần này lại bị chết khi cố bơi vào bờ”. Theo Ngô Hồng Ngọc: “Hai mươi lăm người, cả nam lẫn nữ bị đập mạnh vào đá và bị sóng dập, chết ngay trước mắt chúng tôi: đàn ông nằm sấp, đàn bà nằm ngửa, xác họ nổi lên chỉ sau hai ba phút”.

Con thuyền từ từ chìm. Một số người nhanh trí, lấy dây buộc vào các mỏm đá để phụ nữ, trẻ em bám vào, từng bước leo qua từng phiến đá lớn, quanh những xác chết. Thêm một số người chết do sóng đánh mắc kẹt vào kẽ đá. Ngô Hồng Ngọc kể: “Chừng một giờ sau, một đợt sóng lớn ập tới, từ đảo nhìn ra, thuyền của chúng tôi vỡ vụn thành những tấm gỗ mỏng trôi lênh đênh, cùng với xác người và một vùng loang của máu”. Theo Ngô Quang Hưng: “Một ấn tượng cực kỳ khó quên là trên bờ có cơ man nào là dép Lào. Và nhiều mảnh gỗ không biết từ đâu dạt đến”. Ngọc nói: “Có lẽ, không chỉ thuyền của chúng tôi lâm vào cảnh ngộ này”.

Điều ám ảnh những người sống sót nhất, theo Ngô Quang Hưng: ““Khi các thuyền nhân đang đấu tranh với sóng, đá ngầm, bánh lái, để tìm cách lên bờ thì cũng là lúc thủy triều đang dâng. Cái mỏm đá mà chiếc ghe kẹt lại càng lúc càng xa bờ, chìm dần xuống. Không hiểu thế nào mà còn một cậu bé đứng trên mỏm đá đó khi những người còn sống sót đã lên hết trên bờ. Sóng thì quá mạnh. Vách đá dựng đứng. Ba bốn ngày đói khát. Khát khủng khiếp! Không ai có khả năng bơi ngược lại mỏm đá càng lúc càng xa bờ. Tất cả thẫn thờ đứng nhìn. Những cái xác bồng bềnh. Đàn ông sấp. Đàn bà ngửa. Biển ngập dần lên mỏm đá mà cậu bé đứng, lúc này chỉ còn là một cái chấm ngọ nguậy. Mọi thứ biến mất như chưa từng tồn tại trên đời:

cái ghe, mỏm đá, cậu bé. Đoàn thuyền nhân quay lưng trèo lên đỉnh núi trước khi mặt trời lặn”.

Gia đình Ngô Hồng Ngọc và gia đình người tài công may mắn còn nguyên vẹn.

Vách núi, về sau mọi người mới biết là hòn Bảy Cạnh, dốc đứng, nhưng mọi người vẫn cố gắng trèo lên vì nước thủy triều. Ngô Hồng Ngọc nói: “Chúng tôi nắm tay nhau cho qua cơn đói khát… Đau buồn nhất là gia đình bác sĩ Vận, ông chết trước mắt vợ con. Người vợ của ông giờ đó đã trở thành góa phụ lại bị gãy chân. Chị Thảo, em gái bác sĩ Vận, vừa dìu chị dâu vừa lo kéo hai thằng cháu nhỏ. Chúng vừa nhớ bố vừa đói khát, chốc chốc lại kêu: ‘Bố ơi! Con đói quá. Bố ơi! Con lạnh quá’.

Tối như đêm ba mươi. Không mấy ai để ý đến thời khắc giao thừa. Chúng tôi chỉ đợi trời sáng để leo qua đỉnh núi, hy vọng ở phía bên kia có người”.

Nhưng ở phía bên kia vẫn chỉ là đảo hoang. Ngô Hồng Ngọc kể: “Chúng tôi bẻ củi, chất thành đống lớn, đợi trời tối để sưởi cho bớt lạnh và hi vọng tàu đi ngoài xa có thể nhìn thấy và tới cứu. Thêm một đêm ngóng trông. Khi đống lửa đã sắp tàn thì nghe có tiếng ca nô chạy vào bờ, tiếng súng bắn và sau đó tiếng loa phóng thanh: ‘Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam… Công an nhân dân Côn Đảo… Yêu cầu bỏ vũ khí…đầu hàng!’. Vẫn là ‘Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam’. Không gì có thể làm chúng tôi đau đớn hơn. Sáng mùng Ba Tết, chúng tôi được một xà lan lớn đưa ra biển và đưa vào núi lớn Côn Đảo”.

Theo Hồng Ngọc: “Từ hôm đó chúng tôi được phát mỗi người hai bộ quần áo tù màu ghi đậm, vải thô xù xì rồi được đưa vào trong một phòng giam lớn, hai bên có hai bệ bê tông dài, ở giữa là lối đi. Chúng tôi nằm xếp lớp trên đó, không chăn, không gối. Hàng ngày, được phát hai lần cơm, lâu lâu mới có muối mè hay rau luộc. Sau giờ điểm danh sáng, cửa phòng mở, chúng tôi được đi lại, tắm rửa, hay lòng vòng quanh mấy hàng hiên. Một số người sẽ được gọi đi ‘làm việc’. Đối diện với trại nữ là khu trại nam. Các tù nhân nam bị nhốt trong nhà, trừ những giờ ra ngoài đi lao động, trồng rau hay dọn vệ sinh. Khi chúng tôi tới, Côn Đảo không còn tù chính trị. Những người đang ở đây, phần lớn là dân vượt biên, những người bị giữ lâu nhất thường là dân ‘có tóc’ như chủ ghe, tài công”.

Các thuyền nhân bị giữ ở Côn Đảo bốn tuần thì được đưa lên một xà lan lớn, chở vào trại giam Cỏ May, Vũng Tàu. Khác với Côn Đảo, trại giam Cỏ May giam đủ loại tù, tù chính trị hạng nặng bị nhốt riêng. Hồng Ngọc bị nhốt chung với các nữ tù chính trị và hình sự. Ngọc kể: “Trong phòng, có người tên là Dì Ba, nghe đâu từng làm sĩ quan tâm lý chiến thời Việt Nam Cộng Hòa, đã vượt biên sáu lần, cả sáu lần đều vô khám”. Ngọc bị giam bảy tháng ở trại Cỏ May. Một người lính hải quân Việt Nam Cộng Hòa vì tội tổ chức vượt biên đã bị nhốt năm năm trong trại.

Năm 1985, Bộ Luật Hình sự của Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam lần đầu tiên ra đời, coi vượt biên là một tội hình sự, xếp chung vào nhóm tội “xâm phạm an ninh quốc gia”. Trước đó, những người vượt biên bị bắt có thể bị giam mà không cần xét xử hoặc bị xử theo Pháp lệnh Trừng trị các tội Phản Cách mạng do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 1967. Theo Luật sư Trương Thị Hòa, người đã từng bào chữa cho một số bị cáo “vượt biên”, tòa áp dụng khá linh hoạt các quy định trong Pháp lệnh 1967, tuy nhiên, phần lớn bị xử tù theo Điều 9: “Tội trốn theo địch hoặc vì mục đích phản cách mạng mà trốn ra nước ngoài”.

Trại Gia Trung đã dạy cho Chóe những bài học dài ngày trong buồng biệt giam, để khi vượt biên bị bắt, anh thôi không “cãi” là mình vô tội nữa. Tại trại giam Công an Long An, anh đã rất “ngoan” nên “án” ba năm chỉ ở hai năm là được tha. Nhưng bị bắt ngày ấy vẫn được gọi là may.

Anh Phùng Văn Vinh314 nhớ lại: “Mùa hè năm 1981, ở bãi biển Thanh Bình Đà Nẵng, có bốn người vượt biên bị bắn chết, xác trôi vào được xếp ngay hàng trên bờ chờ người tới nhận… Trên xác họ, đầy kín những lỗ đạn đen xỉn, ruồi vo ve bay… Một xác là của một người thanh niên lai Mỹ với mái tóc vàng óng, nằm dài ngoằng so với những người còn lại. Nghe đâu sau đó có ba người được thân nhân tới nhận xác đưa về chôn, còn anh thanh niên lai Mỹ vì không có ai đến nhận, nên đã bị đưa đi mất vì dân chúng quanh đó không chịu nổi mùi thối… Tôi nghe những người lớn lúc đó thầm thì bàn tán, chính quyền cố tình để vậy để răn đe dân chúng trong vùng. Chẳng là dân Đà Nẵng có tiếng về chuyện liều mạng vượt biển”. Nhưng đó chỉ là những cái chết được nhìn thấy.

Đường tới các trại tị nạn Trong suốt một thập niên rưỡi sau 1975, vượt biên với nhiều người miền Nam là lối thoát duy nhất, nhưng cũng là lối thoát đắt giá nhất. Hàng nghìn người đã phải trả bằng chính sinh mạng của mình. Hàng ngàn người khác tuy “tới được bến bờ tự do” nhưng sự bình yên không bao giờ trở lại sau những nỗi kinh hoàng trên biển. Ngày 24-10-1977, toán vượt biên của Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ315 bước sang ngày thứ năm của hải trình thì xà lan bị hỏng máy. Họ phải gom hết “pông-sô” làm buồm

lái về phía Thái Lan. Hai ngày sau, thực phẩm dự trữ mang theo bắt đầu cạn. Bác sỹ Tuệ kể: “Ban tổ chức cuộc vượt biên họp ‘mở rộng’ đưa ra ‘chính sách công xã’, gom thực phẩm của tất cả các nhóm trên xà lan, tập trung và chia đều khẩu phần hàng ngày. Thùng nước trên xà lan được khử trùng bằng chlorine, đun nấu ăn và nước uống. Mỗi gói cơm sấy được nấu thành cháo chia cho gia đình mười người… Ngày thứ mười, có bốn chiếc thuyền buôn lớn đi qua, chúng tôi đốt lửa báo hiệu, chúng tôi vẫy tay, chúng tôi đánh cờ semaphore bằng quần áo… Nhưng những chiếc thuyền ấy đã bỏ đi mặc dù thấy nhóm người chúng tôi bơ vơ giữa biển trên chiếc xà lan nhỏ bé”.

Chiều ngày thứ mười một của chuyến hành trình, theo Bác sỹ Tuệ: “Biển êm sóng lặng, chúng tôi chợt thấy một chiếc thuyền đánh cá neo lại từ phía xa chân trời. Hy vọng lại vươn lên trong buổi chiều trên biển. Chúng tôi vẫy tay, chúng tôi la hét, chúng tôi phất quần áo làm cờ ra hiệu nhưng không thấy những người trên thuyền đáp ứng. Cuối cùng, sự may mắn đã đến khi lưới đánh cá của chiếc thuyền đó trôi ngay gần chiếc xà lan! Hai người bạn trẻ tuổi, Đức và Thành, can đảm nhảy xuống biển, bơi đến, bám chặt lưới cho đến khi các ngư phủ Thái Lan kéo cả hai lên thuyền. Mọi người trên xà lan nhìn theo hồi hộp chờ đợi… Chiếc xà lan được những ngư dân Thái kéo vào thành phố Pattani ở bờ Đông Thái Lan vào ban đêm. Những ánh đèn thành phố nhìn từ ngoài biển là những ánh sáng hy vọng. Xà lan bị cô lập ở bến Pattani. Cảnh sát lên kiểm tra, chúng tôi không chánh thức được lên đất liền,

nhưng được phép tiếp xúc với dân địa phương, được mua hàng và lần đầu tiên được uống Coca Cola sau hai năm kể từ ngày được giải phóng”.

Toán vượt biên của bác sỹ Tuệ chỉ được ở lại Pattani hai ngày để mua thêm thực phẩm. Sửa chữa máy xong, xà lan của họ bị tàu Thái hộ tống đưa ra biển hướng về phía Songkhla nơi có trại tị nạn cho người Việt. Xà lan đi hai ngày, đến Songkhla, thấy bến nhưng bị tàu tuần Thái chĩa súng đuổi ra. Bác sỹ Nguyễn Đức Tuệ kể tiếp: “Một ngày sau, xà lan lại chết máy. ‘Pông sô’, áo mưa lại kết lại làm buồm, xà lan trôi nổi bảy ngày, cuối cùng nhờ có luồng nước kéo trở lại Songkhla. Xà lan tấp bến. Chúng tôi bồng bế nhau, già trẻ lớn bé lội xuống biển. Cùng lúc, dân Thái Lan tràn lên quăng hành lý xuống và cướp đi luôn, máy tàu bị họ phá và giật xuống biển. Cả đoàn phải ở ngoài bờ biển, màn trời chiếu đất, ban đêm chúng tôi đào những hố cát để làm giường tránh gió và canh chừng cho các bà các cô, sợ dân Thái Lan hãm hiếp. Ban ngày dân địa phương bu quanh nhìn chúng tôi bị rào bởi vòng rào dây thừng như đi xem sở thú. Họ quăng đồ ăn, quăng trái cây vào như cho khỉ ăn. Tự do chưa thấy chỉ thấy cướp”.

Ba ngày sau, ông tỉnh trưởng Songkhla xuất hiện với lính cận vệ. Họ dẫn theo sáu mươi bảy thuyền nhân khác đi bằng thuyền từ Phú Quốc đến Songkhla. Chính sách Thái lúc bấy giờ không nhận người tị nạn. Những người này bị đuổi ra bãi để nhập chung với nhóm của Bác sỹ Tuệ. Ông Tuệ kể: “Tôi biết chút tiếng Mỹ, đứng nói chuyện với tỉnh trưởng Songkhla xin ở lại. Tỉnh trưởng Songkhla cầm gậy chỉ huy đánh vợ tôi đang bồng con trên tay, miệng thì la ‘let’s go’. Các con của những phụ nữ khác cũng bị giằng ra khỏi tay mẹ, ném từng đứa một lên xà lan, các bà mẹ đành phải theo con. Lính Thái đánh anh Hải chảy máu mũi. Tôi đứng bên cạnh ông tỉnh trưởng, nổi nóng tiến gần ngay cạnh ông ta, cận vệ sợ tôi đánh ông tỉnh trưởng, một người vội vàng rút khẩu súng Colt lên đạn chĩa vào đầu tôi. Một trung sĩ cận vệ tử tế, nói nhỏ: bác sĩ đừng chống cự, họ sẽ bắn ông thật đấy”.

Bác sỹ Tuệ kể tiếp: “Ở trên xà lan hơn mấy tuần, khói dầu diesel đóng lên mặt mũi, thân thể chúng tôi đen như mọi, đầu tóc ngứa ngáy, chải thì thấy chí rận rơi xuống. Nhiều trẻ em da bị lở loét vì nắng và dầu. Con bé Ngọc của chúng tôi, ngày xuống xà lan ăn mặc tươm tất, quần áo đẹp đẽ tự tay bà ngoại may, khi bước ra khỏi khoang xà lan đã thành ‘cô bé lọ lem’, quần áo dính nước sét hầm xà lan đổi thành màu cháo lòng… Một tuần ở Narathiwat, vợ chồng tôi thân với vợ chồng một y tá trẻ ngành quân y Thái. Biết chúng tôi sẽ phải ra đi chứ không được đưa về trại tị nạn ở Thái Lan như chúng tôi tưởng, họ nói với tôi là họ không nghĩ chúng tôi sẽ có thể sống sót trong cuộc hành trình sắp đến nên xin cho bé Ngọc ở lại làm con nuôi, nếu chúng tôi may mắn đến được đất liền, qua Mỹ lúc ấy chúng tôi có thể làm giấy tờ hội ngộ. Đề nghị tử tế và thành thật này làm chúng tôi bâng khuâng và suy nghĩ. Em tôi, Hồng và Hiến họp lại đêm hôm ấy nói rằng: Sống chết có nhau, nay đã đi đến đây chỉ còn một quãng đường ngắn, anh em có xui xẻo thì xui xẻo cùng. Vợ chồng tôi đã quyết định để bàn tay Trời định đoạt”.

Ngày 19-10-1977, nhóm vượt biên của Bác sỹ Tuệ đến Trengganu, Thái Lan, sau bốn mươi ngày lênh đênh. Cho dù có lúc sống chết chỉ còn trong gang tấc, chuyến đi của họ được coi là may mắn. Đoàn có 168 người, gồm sáu mươi phụ nữ và sáu mươi trẻ em, không bị nạn hải tặc, không có người bị bệnh nặng, không có người phải bỏ xác trên biển.

Chuyến vượt biên thứ sáu cũng đã đưa Thiếu úy Phan Ngọc Vượng tới được một trại tị nạn ở Malaysia. Nhưng trước đó, chuyến vượt biên thứ năm của ông vào cuối năm 1978 đã bất thành dù có nhiều tình cờ may mắn. Chiếc ghe đưa họ ra khơi là loại ghe bầu chạy trên sông Tiền, thường được gọi là ghe cà dom. Đi được ba ngày, ba đêm thì chết máy, chiếc ghe trôi vô định ngoài hải phận quốc tế, gặp gần năm chục chiếc tàu chạy qua mà không có một chiếc nào cứu giúp. Ngày thứ tư, vào khoảng 5 giờ chiều, xuất hiện một chiếc tàu tên là Hegenburger, chạy gần. Ông Vượng quyết định nhảy xuống biển bơi ra chặn đầu.

Con tàu đồ sộ kéo còi giận giữ trong mấy phút rồi thả một chiếc ca-nô cùng một sỹ quan và ba người lính xuống. Ca-nô vừa chạm nước, viên sỹ quan rút súng, đạn găm ngay sau lưng ông Vượng. Rồi chiếc ca-nô chạy nhanh tới, trong tích tắc, ông Vượng được kéo lên. Viên sỹ quan hỏi: “Ông là ai?”. Ông Vượng: “Tôi là người tị nạn Việt Nam! Còn các ông?”. Viên sỹ quan: “Chúng tôi từ Đông Đức”. Ông Vượng: “Sao ông bắn tôi?”. Viên sỹ quan: “Ông không thấy hai con cá mập nó đang dí sau lưng à?”.

Trước khi gặp thuyền trưởng, ông Vượng được đưa vô nhà hàng trên tàu, ông được đặt ngồi trước một đĩa thịt bò và một lon Coca. Đó là bữa ăn ngon nhất trong cuộc đời của ông Vượng. Những người trên tàu đã rất lịch sự nhưng không chịu đưa những thuyền nhân đến Hong Kong. Thoạt đầu, họ đã bỏ đi, nhưng sau khi biết cơn bão tới gần có thể nhận chìm con tàu hỏng máy chở các thuyền nhân Việt Nam, tàu Hegenburger đã quay trở lại và sau khi thương lượng, những người vượt biên chấp nhận quay trở vào bờ tránh bão.

Gần sáng thì họ nhìn thấy bờ biển Vũng Tàu. Thủy thủ tàu Hegenburger báo cho chính quyền rồi quay đầu. Khoảng 5 giờ sáng, tàu công an xuất hiện. Thuyền trưởng chiếc ghe vượt biên, nguyên là một trung úy hải quân vừa đi học tập về, nhảy xuống biển. Ông Vượng biết, nếu bị bắt lại, những người như ông và viên trung úy sẽ phải mục xương trong tù. Ông Vượng cũng nhảy xuống biển. Mới bơi được mấy sải thì một thằng nhỏ trên ghe ném cho ông miếng xốp khá lớn. Chính miếng xốp đó đã cứu mạng ông. Viên trung úy hải quân lần ấy đã không thể bơi vào bờ.

Vài giờ sau, ông Vượng được mấy người Nga kéo lên một chiếc cano nhưng thái độ của họ khiến ông Vượng e rằng sẽ bị giao cho công an nên khi thấy một chiếc ghe câu nhỏ đi qua, ông Vượng gọi: “Ơi! Cứu anh!”. Hai thiếu niên trên ghe câu hỏi: “Vượt biên à? Nhảy đi!”. Ông Vượng nhảy xuống. Ông Vượng được hai cậu bé đưa về nhà trong một làng chài. Nghỉ ngơi, ăn uống xong, hai cậu bé đưa ông về Sài

Gòn với giá một lượng vàng. Lúc đó, đi honda không hẳn là an toàn, nhưng đi xe đò thì chắc chắn không thoát vì công an sẽ xét, nếu không có giấy đi đường là bắt liền. Chập tối, họ lên đường, và tới 11 giờ đêm thì về tới nhà mẹ ông Vượng ở Gò Vấp. Bà mẹ già bật khóc: “Sao lần nào đi cũng không tới nơi vậy con?”.

Toàn bộ số người còn lại trên chiếc ghe cà dom bị đưa về Vũng Tàu, mọi người khai hết “tội” cho Phan Ngọc Vượng. Họ bị giam giữ tại trại Cỏ May hai tháng rồi được phóng thích. Câu chuyện Phan Ngọc Vượng một mình tổ chức vượt biên, tuy không trót lọt, nhưng với trình độ ngoại ngữ và khả năng ứng phó trong những tình huống hiểm nghèo khá tốt đã được dân vượt biên đồn thổi. Ông Vượng sau đó đã được những người giàu có chi tiền đề nghị ông chủ trì một cuộc vượt biên cho gia đình họ. Chuyến đi ấy tổng cộng bốn mươi chín người trong đó có năm người em của ông Vượng. Khác với năm lần trước, chuyến vượt biên thứ sáu của ông may mắn bất ngờ.

Chập tối ngày thứ tư, một tàu đánh cá Thái Lan cặp vào mạn của chiếc ghe vượt biên. Ông Vượng kể: “Tôi kêu tất cả phụ nữ chui xuống hầm, đề phòng. Phía tàu đánh cá cho một đại diện lên gặp thuyền trưởng nói chuyện. Vào, thấy trong phòng ông thuyền trưởng trang trí đầy tượng Phật, tôi đã thấy mình may mắn. Ông thuyền trưởng hỏi: ‘Các anh cần gì?’. Tôi nói: ‘Cần một ít nước uống và xin chỉ đường giùm’. Ông cho nước uống và chè đỗ xanh, rồi hỏi: ‘Còn dầu không?’. Tôi nói: ‘Thưa còn’. Ông chỉ tay và nói: ‘Cứ đi theo hướng này thì chiều mai mày sẽ tới Malaysia’. Khoảng bốn giờ chiều hôm sau, chúng tôi nhìn thấy một rặng dừa”.

Thay vì được chào đón, khi chiếc ghe vượt biên tới gần bờ, điều mà họ nhìn thấy là những họng súng đen ngòm trên tay mười hai cảnh sát mặc đồ rằn ri đang chĩa thẳng vào những người tị nạn. Ông Vượng, khi ấy chỉ mặc một chiếc quần jeans,

quyết định nhảy xuống biển, vừa giơ hai tay, vừa đi vào. Cảnh sát quát: “Stop!”.

Ông Vượng nói: “Refugees”. Cảnh sát: “Bao nhiêu người?”. “49”. “Có vàng, đô-la không?”. “Có”. “Ok, ra mang vàng vào đây tao cho vô”. Ông Vượng đi ra, chủ tàu lấy năm lượng cùng một ít nữ trang đưa ông Vượng mang vào bờ. Sau khi nhận vàng, cảnh sát nói: “Đục tàu đi rồi cho vô”.

Vào bãi, bốn mươi chín người phải chịu cảnh màn trời chiếu đất. Các viên cảnh sát thỉnh thoảng qua gặp nói đưa tiền, muốn mua gì họ mua cho. Bốn ngày sau, có thêm một tàu của người Hoa “vượt biên bán chính thức” đến. Họ có 140 người đa số là người Việt. Thêm một tuần lễ sau đó, 189 người phải tự xoay xở trên bãi, đào giếng kiếm nước, lượm củi nấu ăn. Ngày thứ mười một, một người bận quân phục sỹ quan, đầu đội nón bê rê xanh đến, gặp ông Vượng, người duy nhất biết tiếng Anh, nói: “Tôi là người của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc”. Không phải ai vượt biên cũng có cơ hội gặp được người của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc.

Ngày 27-5-1989, chỉ cần biên phòng khám xét lâu thêm vào tiếng nữa là Phạm Thanh Tùng316 cùng chín mươi sáu người khác có thể bị đông cứng trong khoang chứa cá. Sau một hành trình dài từ Sài Gòn về Châu Đốc giống như những người đi vía Bà, nhóm vượt biên của Tùng lần lượt được xếp nằm trên những chiếc xuồng

chở dừa. Chủ thuyền lấy lá dừa tươi tấp lên những người vượt biên rồi chở về hướng Bắc Mỹ Thuận. Bốn giờ sáng thì tàu cặp ghe lớn lúc đó đang neo đậu giữa dòng.

Tổng cộng chín mươi bảy người, gồm cả vợ con người chủ tàu, được xếp vô khoang cá. Hàng chục cây đá được xếp chồng lên nhiều lớp để che. Ra tới cửa biển thì đụng tàu biên phòng, cuộc khám xét kéo dài cho đến khi da một đứa trẻ trên tàu đã bắt đầu tím tái. Chủ tàu cho chạy thêm khoảng một giờ, cầm chắc đã ra khỏi tầm truy đuổi, mới huy động những thanh niên còn khỏe liệng hết đá cây xuống biển. Khi đó nhiều người đã lịm đi vì rét cóng. Đó là chuyến vượt biên lần thứ mười một của Phạm Thanh Tùng. Ngày 1-6-1989, con tàu của Tùng vào tới đảo Talampuru (Philippines).

Chỉ đi sau chuyến tàu của Tùng một ngày, ngày 2-6-1989, có một chiếc tàu vượt biên khác cũng vào gần tới đảo Talampuru. Thay vì đậu ngoài xa chờ dẫn đường, khi thấy một cơn bão đến gần, con tàu tiến nhanh vào đảo. Tàu của họ bị kẹt vào bãi san hô và ngay sau đó, con tàu bị sóng lớn đánh vỡ ra từng mảnh. Khi bão tan, chỉ có năm người sống sót bơi được vào bờ. Họ nói, con tàu khởi hành với 117 người.

Ngày 7-8-1987, để tránh bị biên phòng phát hiện, ông Trần Quang Phước, một cựu trung úy hải quân Việt Nam Cộng hòa, quyết định ra đi khi Nha Khí tượng dự báo có bão cấp 7. Con tàu chở hai mươi bảy người trong đó có bốn người trong gia đình ông Phước. Con trai ông, anh Trần Minh Triết kể: “Con tàu đi tới khuya thì bắt đầu bão. Cả tàu say sóng nằm la liệt chỉ còn lại hai cha con. Ba tôi cầm lái. Đi tới trưa hôm sau thì ra tới ngoài khơi xa. Ba tôi giao tay lái cho tôi. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy những con sóng tiếp nối những con sóng, cứ ập tới con thuyền nhỏ bé như những ngọn núi. Tôi chỉ còn biết nghe lời cha tôi mà tiếp tục đi, chỉ biết trao thân cho đại dương, lúc nào cũng có cảm giác mình sắp bị những con sóng nhấn sâu xuống lòng biển”. Như có phép màu, chỉ bốn ngày sau, con tàu nhỏ đi tới Malaysia. Trần Minh Triết nói: “Sau mười lăm lần vượt biên không thành kể từ năm 1982, cha con chúng tôi được đưa vào trại Sungeipesi”.

Tại trại tị nạn Sungeipesi, cuối năm 1987, Trần Minh Triết ở chung nhà với một phụ nữ trẻ. Triết kể: “Chiều chiều, xuống cầu thang, tôi thấy chị ấy cứ nép người vào một góc tối, khóc lên rưng rức. Chúng tôi phải để cho chị ấy khóc bởi chỉ cần đụng vào là chị ấy hoảng lên, co rúm lại. Không ai dám hỏi han. Trên biển, chị ấy đã bị hải tặc hiếp dâm nhiều lần”.

Khi chuyển vào trại Paulo Bidong, Triết gặp một cô gái khác trạc tuổi mình. Cô cùng một người khác được vớt lên và được coi là hai người sống sót trên một con tàu vượt biên bị hải tặc trên vùng biển Thái Lan. Cô gái bị hãm hiếp nhiều lần trong khi chứng kiến anh trai mình bị chặt làm ba khúc. Trần Minh Triết kể: “Chiều nào cô cũng rủ tôi ra biển. Nhưng chỉ khi ánh mắt chúng tôi chạm tới biển là cô lại lăn

đùng ra đất, mắt trợn ngược lên, miệng cứng lại”. Dung, tên cô gái, chỉ ở Paulo Bidong bốn mươi lăm ngày, thay vì ở gần hàng năm như những thuyền nhân khác. Cô được một tổ chức thiện nguyện bảo lãnh đưa đi chữa bệnh.

Ông Nguyễn Văn Mai317 kể: “Trong thập niên 1980, tôi bay đến các trại tị nạn nhiều lần và chứng kiến hàng ngàn câu chuyện đau lòng. Ở một trại tị nạn ở Thái Lan, tôi gặp một phụ nữ bị hải tặc cưỡng hiếp nhiều lần, khi được Hội Chữ thập đỏ giúp chữa trị, những vết thương của chị đã mưng mủ. Mùi hôi thối lựng một góc lán. Các bác sỹ còn phát hiện ra là chị bị dính thai. Thai đôi và không bình thường. Theo các bác sỹ thì giữa các ngón tay của hai đứa trẻ có các màng dính, họ khuyên nên bỏ. Người chồng là một nông dân chất phác, đã có bốn đứa con, nói: đứa nhỏ này không có tội, ông trời định cho nó cái nghiệp ở trong vợ tôi thì không có lí do gì để tôi phá”. Ông Mai kể tiếp: “Không ai có thể ngờ người chồng đã quyết định như thế. Khi người vợ bị hiếp, bọn hải tặc đã cầm mã tấu bắt anh và các con đứng xem”. Không ai biết chắc có bao nhiêu nạn nhân của hải tặc Thái Lan trong những ngày tháng đó. Cho đến ngày 16-4-1989, tại vùng biển Malaysia, một thuyền chở 130 người tị nạn vẫn bị hải tặc tấn công. Theo Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc, sau khi hãm hiếp phụ nữ, hải tặc đã phóng lửa đốt tàu, chỉ có một người sống sót trên chuyến vượt biên xấu số đó318.

Tại Hội nghị Quốc tế lần II về người Tị nạn Đông Dương, tổ chức trong hai ngày 13 và 14-6-1989, UNHCR cho biết: Chỉ trong vòng từ cuối năm 1988 cho đến tháng 6-1989 đã có hai mươi tám tàu cùng 590 thuyền nhân được ghi nhận là mất tích319.

Theo số liệu của UNHCR, con số thuyền nhân Việt Nam đã từng cập bến các quốc gia lên đến gần một triệu người: Australia 1.750 người; Macau 7.128 người; Singapore 32.000 người; Philipines 51.722 người; Thái Lan 117.321 người; Indonesia 121.708 người; Hong Kong 195.833 người; Malaysia 254.495 người; một số không nhiều lắm cũng dừng chân ở Nhật Bản, Đài Loan, Đại Hàn320… Nhưng, biển mênh mông, những gì thống kê được chưa phải là toàn bộ sự thật.

Nhiều thuyền nhân còn nhớ, tại trại Palawan, Philippines, có chiếc thuyền gỗ được đặt trước cửa văn phòng Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc. Khi chiếc ghe này bị tấp vào bờ, bên cạnh những xác chết trương phình, người ta thấy chỉ còn một phụ nữ mang thai sắp đến ngày sinh. Không ai hiểu bởi phép mầu nào, bà mẹ này cho đến lúc ấy vẫn còn thoi thóp. Bà đã sống sót cho đến khi sanh hạ đứa bé và kịp cho biết, con thuyền khi khởi hành có tất cả năm mươi người. Không phải chuyến vượt biên nào cũng có người sống sót để nói đến số phận của những nạn nhân còn lại. Vĩnh viễn không ai biết có bao nhiêu người Việt Nam vượt biên trong giai đoạn từ 1975 đến đầu thập niên 1990 đã bỏ mình trên biển, bao nhiêu con tàu đã bị biển nhận chìm, bao nhiêu con tàu đã bị hải tặc cướp và giết hết, bao nhiêu phụ nữ và trẻ em đã bị chúng hãm hiếp.

Lịch sử thuyền nhân Việt Nam bắt đầu khép lại từ năm 1996, khi Liên Hiệp Quốc quyết định đóng cửa các trại tị nạn trong khu vực và khi cuộc sống trong nước bắt đầu dễ thở hơn, chấm dứt một bi kịch kéo dài suốt hai thập niên trên biển.

Chú thích

292 Phóng viên báo Người Việt, định cư ở Orange County, California, Mỹ.

293 Tin Sáng, 28-8-1975.

294 Sài Gòn Giải Phóng, 28-8-1975.

295 Bản lược ghi ý kiến của ông Võ Văn Kiệt, tài liệu lưu trữ riêng của ông Kiệt.

296 Bruce Grant, 1979.

297 Thuộc phái Khmer Tự do trong Chính phủ 3 phái Campuchia do Sihanouk cầm đầu kháng chiến chống Việt Nam.

298 Trả lời phỏng vấn tác giả ngày 8-3-2005.

299 Giáo sư Chu Phạm Ngọc Sơn du học ở Mỹ từ năm 1959, học Lý-Hóa ở Delaware, lấy Ph.D. năm 1962 rồi về Việt Nam dạy học. Tuy nhiên Hội đồng Quốc gia đã xét phong cho ông giáo sư, học hàm mà ông đã được chế độ cũ công nhận từ năm 1967.

300 Trụ sở của Phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong Ủy ban Liên hợp Bốn bên thi hành Hiệp định Paris 1973.

301 Giáo sư Châu Tâm Luân viết: “Tháng 8 giá bột ngọt đang ổn định, bỗng tăng vọt lên 4.000 một ký rồi 5.000 đồng và trong vài ngày đã lên 8.000… Mặc dù chánh quyền đã lên tiếng cho biết bột ngọt không thiếu, một số đồng bào cứ tranh nhau mua. Thậm chí, có người không có sẵn tiền vẫn vay mượn để mua thật nhiều ở giá 15.000đ một ký để mong kiếm lời khi giá tăng cao hơn nữa; để rồi phải than vãn thở dài khi giá hạ nhanh xuống 5.000đ, rồi ổn định lại ở mức 3.800đ một ký, khi chánh quyền tung bột ngọt ra bán. Sau vụ bột ngọt lại đến muối .v.v… Thật ra thì trong tình thế mới, nhiều mặt hàng, nhất là những hàng không phải là nhu yếu và lại là hàng nhập cảng, sẽ phải tăng giá vì chúng ta còn ở trong giai đoạn phục hồi sau chiến tranh và cũng không thể tiếp tục cho nhập cảng ồ ạt như lúc trước được” (Tin Sáng, 9-9-1975).

302 Tin Sáng, 9-9-1975.

303 Vượt biên ngày 19-10-1977, đang định cư ở Houston, Taxes, Mỹ.

304 Đổi tên theo yêu cầu của nhân chứng.

305 Họa sỹ Chóe kể: Khi nghe tin Huỳnh Bá Thành đột ngột mất, ông đã bỏ buổi cà phê sáng với bạn bè ở 81 Trần Quốc Thảo, về nhà kêu vợ chuẩn bị xe rồi hai vợ chồng đi lên Đà Lạt. Cho đến nhiều năm về sau, bà Kim Loan cũng không hiểu vì sao mình được chồng chăm sóc bất ngờ như thế. Chóe chỉ giải thích với một vài người bạn thật tâm giao: “Sẽ là không thật lòng nếu mình đi đến đám ma viếng Huỳnh Bá Thành”.

306 Tiền thân tờ báo Người Lao Động.

307 Giáp Văn Thạch phổ thơ Đỗ Trung Quân. Bài thơ có tựa là Bài Học Đầu Cho Con, in lần đầu, năm 1986, trên báo Khăn Quàng Đỏ, bị cắt đi một số đoạn. Năm 1991, tác giả cho in lại bản đầy đủ trong tập thơ Cỏ Hoa Cần Gặp, Nhà Xuất bản Thuận hóa. Bài Học Đầu Cho Con được nhà thơ Đỗ Trung Quân viết như một món quà tặng thôi nôi cho con gái đầu lòng của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh - cháu Nguyễn Nhật Quỳnh Anh, sinh 1985. Cũng trong năm 1986, khi phổ nhạc, nhạc sỹ Giáp Văn Thạch đã đổi tựa thành Quê Hương. Bài hát được hát trở nên có vai trò chính trị trong giai đoạn đó, nhất là khi báo Khăn Quàng Đỏ thêm vào sau câu kết của Đỗ Trung Quân: “Quê hương nếu ai không nhớ…” câu “Sẽ không lớn nổi thành người”.

308 Lúc bấy giờ là phó tổng biên tập báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

309 Bộ trưởng Nội vụ 1987-1991.

310 Tên thường gọi của ông Nguyễn Hùng Trương, chủ nhà sách Khai Trí.

311 Mãi tới năm 1989, ông Trần Văn Ngọt mới vượt biên thành công, hiện định cư tại Houston, Texas.

312 Hiện đinh cư tại Đức.

313 Hiện là giáo sư tại Đại học SUNY-Buffalo, tiểu bang New York (Mỹ).

314 Anh Vinh vượt biên đến Hong Kong năm 1989, hiện định cư tại Florida, Mỹ.

315 Từng làm việc tại bệnh viện Bình Dân, đang định cư ở Houston, Texas, Mỹ.

316 Hiện định cư tại Orange County, California (Mỹ).

317 Một thuyền nhân vượt biên từ Nha Trang từ năm 1975, hiện định cư tại Chicago.

318 Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 23-7-1989.

319 Cho đến đầu thập niên 1990, người dân Việt Nam vẫn tiếp tục vượt biên trong khi bắt đầu đã có những người vượt biên trước đó trở về thăm nhà. Chính sự phong lưu của Việt Kiều được trọng vọng bởi chính quyền và xã hội lại nung nấu thêm quyết tâm ra đi của nhiều người Việt Nam, nhất là những người từ các địa phương phía Bắc. Lúc ấy, chính sách đổi mới chưa đủ thời gian gây ảnh hưởng để giữ chân người dân. Đầu thập niên 1990, Liên Hiệp Quốc đưa ra chương trình “tự nguyện hồi hương”, theo đó, mỗi thuyền nhân đồng ý quay trở lại Việt Nam nhận được 360 USD tiền trợ cấp. Chương trình này được nói là đã kích thích làn sóng vượt biên vì nếu không được đến một nước thứ ba định cư, một gia đình 4-5 người có thể nhận được một khoản tiền không nhỏ để hồi hương.

320 Theo UNHCR: Những người vượt biên lần lượt đã định cư ở các quốc gia: Australia 110.996 người; Canada 103.053 người; Pháp 27.071 người; Đức 16.848 người; Netherlands 7.565 người. Anh quốc 19.355 người; Mỹ 424.590 người; các quốc gia khác hơn 55.000 người.







Chương 7: Giải Phóng




Nhiều người Việt đã cầm súng với niềm tin họ chiến đấu là để giải phóng miền Nam. Trong suốt nhiều thập niên, truyền thông nhà nước đã lặp đi lặp lại điều này như là chân lý. “Giải phóng” là cách nói để mô tả sự kiện kết thúc vào ngày 30-4-1975. “Giải phóng” là từ không chỉ được dùng bởi những người đi từ trong các chiến khu mà còn được nói như một phản xạ tự nhiên của không ít người dân. Có hàng triệu người đã bỏ nước ra đi, nhưng hàng chục triệu người miền Nam vẫn chọn con đường ở lại, rồi chính họ sẽ có những trải nghiệm đáng nhớ về “giải phóng”.










Sài Gòn thay đổi

Chiều 2-5, từ trường Petrus Ký, Ban Kinh tài Thành ủy đưa nhóm ông Võ Văn Kiệt sang “tiếp quản” nhà 222 và 224 đường Phan Thanh Giản321. Ngôi nhà này vốn là nơi ở của tùy viên quân sự Anh. Người giúp việc cho ông tùy viên lại cũng là một cơ sở bí mật của Cách mạng. Ông Võ Văn Kiệt tới, gia đình rất mừng, và từ hôm đó họ trở thành “cán bộ Thành ủy”.

Lại nói về người lái chiếc xe GMC chở “đại quân” vô Sài Gòn chiều 30-4. Khi đưa ông Kiệt tới trường Petrus Ký, Tư Thạch kêu anh lái xe quay lại đón những anh em đi sau. Xong việc, Tư Thạch cho anh về. Tới chiều ông Kiệt hỏi: “Hai chú tài xế chiều nay đâu?”. Anh em nói: “Ảnh về rồi”. Ông Kiệt kêu: “Có hỏi tên tuổi, nhà cửa người ta không?”. Không ai hỏi cả.

Trong ngày hôm đó, biết bao người đã “xuống đường”, rất nhiều người trong số họ đã làm một việc gì đó rồi trở thành “cán bộ”, lớp cán bộ về sau được gọi là “Cách mạng 30-4”; rất nhiều người khác, sau khi “phục vụ cách mạng”, đã trở về nhà và đã vô danh như thế.

Chiều 2-5-1975, khi tình hình đã tạm ổn định, ông Kiệt kêu Chín Anh về Bình Thạnh kiếm gia đình ông Sáu Hoa. Gia đình ông Sáu Hoa là một cơ sở nuôi giấu “Việt Cộng” trong nội thành từ đầu thập niên 1950. Giữa năm 1956, ông Lê Duẩnđược ông Nguyễn Văn Linh đón lên Sài Gòn và đưa về giấu trong nhà ông Sáu Hoa gần ba tháng. Năm 1963, từ Củ Chi, ông Võ Văn Kiệt cũng vào Sài Gòn trên một chuyến xe do Sáu Hoa lái ra đón. Cùng với nữ giao liên Sáu Trung, từ đó, theo yêu cầu của ông Kiệt, Sáu Hoa sẽ còn đưa ông Kiệt đi lại công khai nhiều lần. Khi từ Trung ương Cục xuống Khu IX nhận chức bí thư khu ủy, ông Kiệt đã dùng xe củaSáu Hoa đi công khai từ Châu Đốc xuống Rạch Giá. Ông Kiệt cũng đã từng ở lại căn nhà 99/9 Nơ Trang Lơng, Bình Thạnh của Sáu Hoa. Từ đây, một người cháu củaông, Chín Anh, sẽ theo ông Kiệt ra “Khu”.

Chiều 1-5-1975, Chín Anh về Bình Thạnh. Chiếc U-oat322 đi tới đâu, người dân nghiêng ngó, xầm xì tới đó, và khi nó quẹo vô hẻm 99/9, bà con ngỡ ngàng. Mấy đứa con nhà Sáu Hoa kêu to: “Việt cộng! Việt cộng!”. Có lẽ bọn trẻ cũng không biết đó là tiếng kêu mừng hay sợ. Cho đến lúc này, vợ chồng ông Sáu Hoa vẫn hết sức dè dặt, cái dè dặt của người hoạt động trong lòng đối phương quá nhiều năm và đã gặp quá nhiều bất trắc. Lúc đó, vẫn chưa có ai trong xóm biết rõ Sáu Hoa là“Cộng”, kể cả mấy người con của ông. Nhưng lũ trẻ nhanh chóng nhận ra một trong mấy ông đi xe là Chín Anh. Bấy giờ thì chúng mừng rỡ thật.

Chưa kịp ngồi xuống, Chín Anh nói: “Chú Sáu Dân cho gọi bác lên gặp ổng gấp”. “Ảnh ở đâu?”, Sáu Hoa lập cập hỏi. “Thì bác thay đồ lẹ lên, sáng giờ ổng nhắc bác hoài”, Chín Anh giục. Sáu Hoa khoác vội áo, ra xe. Tới nơi, ông Kiệt chạy ra tận cửa, hai người ôm lấy nhau: “Mạnh hả? Hết chết rồi hả?”. Hai ngày sau, ông Kiệt về nhà Sáu Hoa ăn bữa cơm đoàn tụ. Ông ôm từng đứa con của vợ chồng Sáu Hoa, lòng lặng đi. Tính mạng của những thiếu niên này đã từng bị đe doạ ngay chínhtrong ngôi nhà đó, trong suốt những năm ông Lê Duẩn, ông Nguyễn Văn Linh và ông Kiệt sống bí mật ở đây. Ông Kiệt bước tới, bước lui, lên gác, nhìn căn phòng, sờ những đồ vật quen thuộc, những thứ đã từng che cho ông sống.

Năm 1957, trước khi ra Bắc, ông Lê Duẩn triệu tập Xứ ủy sang Phnom Penh và quyết định điều ông Võ Văn Kiệt về Sài Gòn thay ông Linh làm bí thư Khu ủy. Sài Gòn cuối năm 1958, khi ông Kiệt đặt chân trở lại, không còn bình yên. Chính quyềnNgô Đình Diệm đánh tróc từng cơ sở của những người cộng sản. Những cấp ủy viên mà ông Kiệt nhận bàn giao từ Phnom Penh lần lượt bị giết hoặc vô tù. Ông Kiệt đành phải tiếp cận Sài Gòn qua ngả Gia Định. Ông nhận thấy nếu có Gia Định thì Sài Gòn sẽ “tiến thoái” dễ hơn. Ông đề nghị sáp nhập Gia Định vào Khu ủy Sài Gòn và được Trung ương chấp thuận.

Sau ngày 30-4-1975, trước nhu cầu sắp xếp cho hàng loạt bí thư khu ủy, tỉnh ủy từ trong rừng ra, việc định lại địa giới hành chánh đã có nhiều bàn cãi. Theo ôngNguyễn Thành Thơ323: “Ngày 3-5-1975, anh Mai Chí Thọ mời tôi tới truyền đạt chủ trương tách T4324: tôi làm bí thư Sài Gòn; anh Mai Chí Thọ làm bí thư tỉnh Gia Định. Rồi anh Mai Chí Thọ kêu tôi bàn giao hết”. Sau khi “bàn giao gần hết cho ông Mai Chí Thọ”, ngày 5-6-1975, ông Thơ lại nhận được thư mời tới số 7 Thống Nhất325, nghe ông Võ Văn Kiệt phổ biến chính thức: “Trung ương Cục không tán thành tách Sài Gòn-Gia Định, vậy anh là phó bí thư Thành ủy, công việc cũ không thay đổi, nay mai sẽ giao việc mới cho anh”.

Trong thời kỳ quân quản, ông Võ Văn Kiệt là bí thư Đảng ủy Đặc biệt, đồng thời được giới thiệu là bí thư Thành ủy Sài Gòn-Gia Định. Ngày 20-1-1976, Chủ tịch Hội đồng Chánh phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Huỳnh Tấn Phát ký Quyết định 03, thay thế Ủy ban Quân quản bằng Ủy ban Nhân dân Cách mạng, chức chủ tịch được giao cho ông Võ Văn Kiệt; chức bí thư Thành ủy được giao cho ông Nguyễn Văn Linh; ông Mai Chí Thọ lãnh chức phó chủ tịch Ủy ban kiêm giám đốc Công an Thành phố.

Trong buổi lễ bàn giao tổ chức vào sáng 21-1-1976 tại Dinh Độc Lập, Thượng tướng Trần Văn Trà cho rằng: “Chúng ta đã nắm chắc tình hình trong tay, chế độ cách mạng đã được bảo đảm vững chắc, trật tự trị an ngày càng ổn định. Thành quả ấy đạt được nhờ… nhân dân đã thực sự tham gia xây dựng chính quyền của mình”326.

Tháng 12-1976, sau Đại hội Đảng lần thứ IV, ông Võ Văn Kiệt trở thành ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị; ông Nguyễn Văn Linh là ủy viên chính thức, được điều vềTrung ương, chức bí thư Thành ủy giao lại cho ông Kiệt. Từ trước đó, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là chính ông đã thúc đẩy việc lấy tên Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức đặt cho Sài Gòn-Gia Định.

Mấy câu thơ: “Ai đi Nam Bộ / Tiền Giang, Hậu Giang / Ai về Thành phố Hồ Chí Minh / Rực rỡ tên Vàng…”327, mà Tố Hữu viết tháng 8-1954, khi Hồ Chí Minh còn nắm quyền, được coi là “sáng kiến thành văn” đầu tiên về việc đặt tên mới cho Sài Gòn. Có lẽ vì Tố Hữu khi ấy không chỉ là một nhà thơ “anh cả” mà còn là trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, nên ý kiến của ông gần như được mặc nhiên thừa nhận. Lịch sử cũng không ghi nhận bất cứ một phản ứng nào từ Hồ Chí Minh. Các văn nghệ sỹ cách mạng cũng coi đó là “vinh dự” của Sài Gòn.

Trong tuần lễ trước ngày 30-4-1975, nhạc sỹ Cao Việt Bách đã đặt tên cho một bài hát của mình là Tiếng Hát Từ Thành Phố Mang Tên Bác. Bản Thông cáo ngày 3- 5-1975 về việc thành lập Ủy ban Quân quản cũng nói: “Thành phố Sài Gòn, thành phố được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”. Ngày 6-5-1975, tờ Sài Gòn Giải Phóng ra đời. Sau đó, tờ Tin Sáng, tờ báo của những người thuộc “lực lượng thứ ba” của Sài Gòn trước 30-4-1975, trên nhiều chuyên mục cũng cho chạy những hàng tít lớn: Thành phố Hồ Chí Minh…

Tuy nhiên, tại kỳ họp đầu tiên của quốc hội thống nhất, khai mạc tại thủ đô Hà Nội ngày 25-6-1976, ông Trường Chinh đã không hoàn toàn đồng ý với cách đặt vấn đề của ông Võ Văn Kiệt. Khi ông Kiệt đề nghị Bộ Chính trị để Quốc hội “công nhận Sài Gòn mang tên Thành phố Hồ Chí Minh”, ông Trường Chinh nói: “Quốc hội không phải công nhận mà là xem xét việc đặt tên cho thành phố, vì chỉ Quốc hội mới có thẩm quyền này”.

Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: Đến giờ giải lao, ông vào phòng dành riêng cho chủ tịch đoàn ở phía sau Hội trường Ba Đình, nơi có mặt Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh, phản đối: “Tại sao Quốc hội lại còn phải đặt tên cho Thành phố trong khi chỉ là thừa nhận một sự thật lịch sử?”. Ông Trường Chinh dứt khoát: “Lịch sử phải có văn bản, chưa có văn bản nào nói Sài Gòn đã được đổi tên”. Ông Kiệt nói:

“Lịch sử có nhiều điều không có văn bản”. Ông Trường Chinh ôn tồn: “Thường người ta lấy tên lãnh tụ đặt cho thủ đô”. Ông Võ Văn Kiệt cãi: “Thưa anh, tên của Lênin có phải đặt cho thủ đô đâu!”. Ông Trường Chinh vẫn kiên định: “Quốc hội vẫn phải làcơ quan quyết định việc này”. Ông Kiệt không thể thuyết phục ông Trường Chinh, đành đề nghị: “Nếu như các anh đưa ra Quốc hội quyết định thì các anh phải giải trình đầy đủ quá trình Thành phố mang tên Bác”. Trước Quốc hội, ông Trường Chinh chỉ nói rất ngắn gọn về việc đổi tên Sài Gòn.

Nhiều năm sau, ông Võ Văn Kiệt mới hiểu ông Trường Chinh lưỡng lự không chỉ vì vấn đề thủ tục. Ông Kiệt nói: “Anh Trường Chinh muốn giữ tên Sài Gòn, một cái tên đã được biết đến suốt gần 300 năm”. Tuy nhiên, trong suốt hàng chục năm, Hồ Chí Minh đã được cả hệ thống chính trị suy tôn làm “Cha Già Dân Tộc”, nên khi cóngười muốn lấy tên ông đặt cho Sài Gòn thì không ai dám đứng ra ngăn cản. Quốc hội đã dễ dàng biểu quyết việc đổi tên Sài Gòn; cũng như, vào lúc 8:20 sáng ngày 2-7-1976, đã dễ dàng đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Trước đó, tháng 8-1975, một loạt đường phố ở Sài Gòn cũng đã được Tuyên huấn Thành ủy cho đổi tên. Tên của các liệt sỹ cách mạng đã được dùng để thay cho tên của những vua chúa, danh nhân thời “đế quốc phong kiến”: Lý Tự Trọng thay thế Gia Long, Võ Thị Sáu thay thế Hiền Vương, Lý Chính Thắng thay cho cụTam Nguyên Yên Đỗ,… Các sự kiện mà những người cộng sản đã ghi vào lịch sử cũng được sử dụng để đổi mới các tên đường như Cách Mạng Tháng Tám, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Đồng Khởi… Người dân Sài Gòn tức cảnh: “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý / Đồng Khởi lên rồi hết Tự Do”. Những thay đổi của miền Nam, của Sài Gòn, không chỉ ở trên những tên đường, tên phố.

Kinh tế mới

Đầu năm 1977, cậu bé Thái Cẩm Hoàng328 thấy nhà mình thường xuyên có khách. Ông tổ trưởng tổ dân phố cùng vài cán bộ ngày nào cũng tới vận động gia đình đi kinh tế mới. Ông nói với mẹ Hoàng: “Chị phải đi thì chồng chị mới được về sớm”. Cha Hoàng, Đại úy Thái Tú Bình, đại đội trưởng đại đội chiến tranh chính trị thuộc tiểu khu Quảng Nam, giờ ấy đang là tù cải tạo. Ông Bình bị bắt ngay sau ngày 29-3-1975, ngày Đà Nẵng được “giải phóng”.

Cuối tháng 3-1975, Hoàng – năm ấy lên bảy – theo mẹ di tản vào Sài Gòn. Ở bãi biển Đà Nẵng, Hoàng đã phải bước trên những xác chết để lên tàu. Kết thúc chiến tranh, Chính quyền Sài Gòn yêu cầu người dân trở về quê cũ, Thái Cẩm Hoàng và các em được mẹ đưa trở lại Hội An, mở một tiệm chạp-pô. Buôn bán khó khăn nhưng trong thời gian đó, mẹ Hoàng còn phải bỏ tiệm đi đắp đập Phú Ninh hơn ba tháng. Hoàng kể: “Một hôm, vừa đói, vừa nhớ mẹ quá, tôi đi bộ từ Hội An lên Đà Nẵng tìm đến nhà dì. Cả nhà hoảng hốt đi tìm. Khi trở về, ông chú đánh cho một trận. Đánh xong, ông ôm tôi vào lòng, khóc”.

Mẹ Hoàng hình dung được điều gì chờ đợi gia đình ở khu kinh tế mới. Nhưng đấy không phải là lựa chọn của những người vợ lính. Hàng xóm chạy qua chạy lại, những người có cùng hoàn cảnh chỉ biết nhìn nhau gạt nước mắt. Biết không thể “chống chính quyền cách mạng”, trước thời điểm rời Hội An, mẹ Hoàng nhờ bà nội qua sống cùng, hy vọng giữ lại được căn nhà. Bà nội tuổi cao, chính quyền không thể buộc bà đi kinh tế mới.

Ngày đi, từ sáng sớm, xe ca mấy chục chiếc đậu trên đường Phan Chu Trinh, nối đuôi nhau từ trường Bồ Đề đến sân Ty Thông tin Chiêu hồi. Thoạt đầu bọn trẻ con rất vui vì sắp được đi chơi xa, nhưng khi thấy người lớn khóc, bọn trẻ bắt đầu hiểu vấn đề nghiêm trọng hơn chúng tưởng. Xe chạy ba ngày hai đêm thì hết đường. Đoàn xe ca dừng lại, chờ xe ủi, ủi đường tới đâu thì tiến vào tới đó. Chập tối, đoàn xe dừng lại cho mọi người lấy đồ đạc rồi quay về, để lại hơn nghìn con người giữa rừng.

Hoàng nhớ lại: “Hôm sau, các gia đình được chia đất. Từ người lớn cho tới trẻ con đều phải đi chặt cây làm nhà”. Mấy ngày tiếp đó, một đoàn xe tải khác đến, Chính quyền cấp cho dân kinh tế mới khẩu phần lương thực đủ ăn trong ba tháng. Hoàng kể: “Khi biết đoàn người mới đến dựng nhà là dân miền Nam, đồng bào ở buôn Chư Cà Ti, huyện Krongpak, Daklak, đã chủ động sang giúp. Đó là một khu vực đêm đêm Fulro vẫn quấy phá chính quyền nhưng Fulro để yên cho người Thượng và dân kinh tế mới. Chiều chiều, bọn trẻ vẫn cắt rừng đi lấy nước ở sông Ana, cách đấy hàng cây số”.

Chính sách được thi hành ở mỗi địa phương thường có những điểm khác nhau. Không phải ở đâu vợ con những người đang ở trong các trại cải tạo cũng phải đi kinh tế mới. Nhiều địa phương coi đưa dân ra khỏi thành phố là để phân bố lại lao động và giải tỏa những áp lực xã hội nảy sinh sau ngày 30-4-1975.Ông Nguyễn Văn Ly, tên thường gọi là Tư Kết, năm 1975 là thư ký riêng của ông Mai Chí Thọ329, kể: “Mỗi đêm, vào khoảng mười một giờ, tôi lại cập nhật các báo cáo nhanh của công an và Bộ Tư lệnh Thành. Không có báo cáo nào là không nói về tình hình người tự tử. Thỉnh thoảng, anh trai của ông Mai Chí Thọ là Tướng Đinh Đức

Thiện qua thành phố, ghé chơi. Thấy tôi loay hoay với mấy bản báo cáo, ông hỏi, ‘Tình hình sao?’. Tôi kể cho ông tình trạng nhiều người cảm thấy bế tắc dẫn đến nạn tự tử ở Sài Gòn. Ông Đinh Đức Thiện nói: vậy là bỏ mẹ rồi, phải đưa đi kinh tế mới mới có công ăn việc làm cho người ta, chứ không còn chết nữa”.Không chỉ Tướng Đinh Đức Thiện nghĩ “kinh tế mới” có thể giải tỏa những bế tắc cho người dân miền Nam. Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 24, họp từ ngày 13-8-1975, xác định: “Cấp bách nhất hiện nay là sắp xếp công ăn việc làm cho ba triệu người. Đây là một công việc khó khăn, nhưng ta có thuận lợi lớn là có thể mở thêm ngay vài triệu hecta canh tác đất tốt, dễ làm, nhiều vùng lại không xa Sài Gòn lắm. Hướng sắp xếp là giảm bớt dân các thành thị, đưa 1,5 triệu đến hai triệu người về nông thôn, vừa sản xuất nông nghiệp, vừa sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp”.

Chỉ sau Hội nghị Trung ương lần thứ 24 không lâu, ngày 14-9-1975, trong một cuộc làm việc với khoảng bảy mươi kiến trúc sư tại hội trường Đại học Kiến Trúc Sài Gòn, Giám đốc Sở Kiến trúc và Quản lý Nhà đất Huỳnh Kim Trương nói rằng Thành phố sẽ đưa khoảng 1,5 triệu dân “về quê lập nghiệp”. Báo Tin Sáng ngày 16-9-1975 dẫn lời ông Trương: “Từ đây cho tới cuối năm 1975 chúng ta còn phải giảm bớt ba trăm ngàn dân ra khỏi Thành phố Hồ Chí Minh để đưa họ về các vùng lân cận tham gia vào công tác sản xuất. Và đến hết năm 1976 sẽ có thêm một triệu hai trăm ngàn dân về quê làm ăn theo đúng chương trình đã được ấn định”.

Ông Trương cho biết: “Khoảng 600 kiến trúc sư và sinh viên sắp tốt nghiệp kiến trúc sẽ nắm giữ vai trò thiết kế các khu chỉnh trang, cũng như các loại nhà ở cho dân chúng. Ưu tiên này nhằm phục vụ cho các giới đồng bào lao động, những gia đình cách mạng, từ lâu đã hy sinh nhiều nhưng cho đến nay vẫn còn ăn nhờ ở đậu”330. Ông nhấn mạnh: “Công việc của chúng ta hiện này chỉ là một cách trả ơn, trả nghĩa cho những người đó”.

Từ những ngày cuối tháng 8-1975, chính quyền cho xe chở hàng chục nghìn dân về quê. Tính đến đầu tháng 10-1975, có hơn 15.000 dân được đưa đi xây dựng các vùng kinh tế mới. Người thì lên Bình Phước, Tân Phú, Tây Ninh; người thì xuống Sóc Trăng, Kiến Tường, Vĩnh Long. Chỉ riêng tháng 10-1975, đã có “hơn 100.000 đồng bào Thành phố lên đường xây dựng vùng kinh tế mới. Tính cả gần năm tháng sau giải phóng, đã có gần 240.000 người phấn khởi trở về quê cũ làm ăn”331. Ngày 28- 10-1975, hội nghị mở rộng của Thường vụ Thành ủy chính thức thông qua chủ trương “đẩy mạnh cuộc vận động chính trị sâu rộng trong quần chúng nhân dân nhằm đưa 1,5 triệu người không có công ăn việc làm đi xây dựng các vùng kinh tế mới”.

Trước đó, theo “Bản Báo cáo về Thực trạng và Khả năng Kinh tế miền Nam” được ông Nguyễn Văn Nam, một quan chức của Ủy ban liên lạc công thương đọc tại “Nhà hát Tây”332 ngày 4-8-1975: “Phân bố lại lực lượng lao động trong cả nước là yêu cầu khách quan cần thiết của đất nước”. Bản Báo cáo cho rằng: “Nền kinh tế do Mỹ để lại chỉ là một sự phồn vinh giả tạo. Kẻ thụ hưởng chỉ là các tầng lớp tư sản quan liêu còn đại đa số quần chúng vẫn sống một cuộc đời cơ cực, không có ngày mai”333.

Không phải mọi người dân đi kinh tế mới đều bị ép buộc. Theo ông Nguyễn Thành Thơ: “Anh Phạm Văn Xô phụ trách vấn đề kinh tế mới, anh Kiệt giao cho tôiphục vụ anh Hai Xô. Nhiệm vụ của tôi là làm việc với từng địa phương để nắm các đối tượng phải đi kinh tế mới. Tôi thấy nhiều người dân ở trong những căn nhà chật chội, cạnh ao tù, nghèo đói. Chúng tôi vận động thì họ vui vẻ đi”. Ngay cả ông Tư Kết, đang là thư ký riêng của một nhân vật quyền bính như ông Mai Chí Thọ, cũngtin tưởng vào chính sách này nên đã cùng với anh trai khuyên mẹ, một “bà má phong trào”, bán căn nhà của bà ở Bùi Viện, Quận 1 để đi kinh tế mới. Các quận đoàn lúc ấy đã cử đoàn viên thanh niên, tiên phong phát hoang, mở đường, làm nhà, lập các làng mới trước khi đưa bà con lên.

Theo ông Nguyễn Thành Thơ, nhà nước cấp đất đai, nhà cửa, gạo và tiền để sống ba tháng đầu. Nhưng thực tế không như mơ tưởng, nhất là với những người dân trước đó quen sống ở thành phố có điện, có nước, chỉ biết ngồi bàn giấy haybuôn bán, nay bỗng nhiên phải cuốc đất, trồng khoai ở nơi thâm sơn. Ông Nguyễn Thành Thơ thừa nhận, ăn hết tiền, hết gạo do Nhà nước cấp, nhiều người dân lục tục bỏ về. Các thành phố lại phải gánh chịu thêm những áp lực mới, nhất là từ những người dân bỏ kinh tế mới về khi nhà cửa không còn, do đã bán đi trước đó hoặc do bị coi là nhà “vắng chủ” đã bị “Cách mạng 30-4” nhảy vào “chốt” mất.

Không phải khu kinh tế mới nào cũng cho dân quay trở về thành phố một cách dễ dàng. Mỗi khi người dân trong vùng kinh tế mới Krongpak, Daklak, muốn về thăm quê đều phải cắt rừng đi từ nửa đêm. Mỗi gia đình chỉ đi mỗi lần một hai người để tránh bị chính quyền để ý. Có rất ít người nghĩ tới việc bám trụ lại, nhưngnhững người vợ lính vẫn lo sợ, nếu trốn, chồng mình sẽ không sớm được về. Gần một năm sau, khi tình hình có vẻ yên yên, mẹ của Thái Cẩm Hoàng mới lén gửi Hoàng về Hội An đi học. Nhưng ngay trong năm kế tiếp, khi về thăm lại Hội An lần đầu tiên, mẹ Hoàng đưa hai đứa em về và mang Hoàng lên để chính quyền trên khu kinh tế mới khỏi nghi ngờ. Ba tháng sau, bà mới dám gửi Hoàng về lại.

Tháng 4-1979, ông Thái Tú Bình được tha. Ông viết thư nhắn vợ bỏ khu kinh tế mới về, dự định sẽ đưa cả nhà vượt biên theo Phương án II. Bức thư ông Bình gửi vợ ở khu kinh tế mới mà cứ như đang ở trong chiến khu: “Con ở trên đó ráng xây dựng kinh tế mới, để chồng con sớm được về. Trong xóm có ông Giới đã được về rồi con ạ”. Mẹ Hoàng nhận thơ, rơi nước mắt vì nhận ra nét chữ chồng mình. Giới cũng là tên ông Thái Tú Bình mà chỉ người trong nhà mới biết. Bốn tháng sau mẹ Hoàng mới bế được cậu em út về gặp cha sau khi tìm cách gửi một đứa con, một đứa cháu về trước. Khi ấy, Phương án II đã bị cắt.

Một lượng lớn người dân thuộc diện “hồi hương” hoặc đi kinh tế mới sau đó đã quay trở về Thành phố. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian 1975-1980, vẫn còn hơn700.000 người dân đã từng sống ở Sài Gòn trước ngày 30-4-1975 không có cơ hội quay lại Sài Gòn sau khi bị buộc “hồi hương” hoặc bị đưa đi kinh tế mới334. Từ 1976- 1995, có gần 4,5 triệu người từ các địa phương trên cả nước được đưa đi xây dựng vùng kinh tế mới335.

Đốt sách

Năm 1953, khi từ Việt Bắc trở về, ông Võ Văn Kiệt được phân công trở lại Bạc Liêu làm phó bí thư Tỉnh ủy, bí thư là ông Ung Văn Khiêm. Cũng trong những ngày đó, ông Kiệt đã cùng với các đồng chí của mình xây dựng một “xã hội lý tưởng” trong “vùng giải phóng”: Cách mạng cấp hàng trăm nghìn héc-ta đất cho nông dân, xoá bỏ chế độ tô tức của địa chủ, phát triển các mặt chính trị, văn hóa, y tế, giáo dục. Ông Kiệt nhớ lại: “An ninh tuyệt vời, nhà không phải khóa, vườn không phải rào; vệ sinh từ nhà ở đến xóm ấp đều sạch sẽ; dân chúng hát những bài ca cách mạng, xem văn công cách mạng”.

Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, vào năm 1975, ông cũng mong muốn xây dựng ở Sài Gòn “một xã hội lành mạnh” như ông đã từng làm ở Bạc Liêu. Như nhiều địaphương lúc bấy giờ, một trong những công việc đầu tiên mà chính quyền quân quản Sài Gòn ra tay là “chiến dịch quét sạch những tàn dư văn hoá phản động và đồi truỵ”. Thành đoàn Thanh niên Cộng sản đã đứng ra thực hiện chiến dịch này.

Ngày 23-5-1975, trên nhiều đường phố Sài Gòn, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô tonhiều khẩu hiệu đả đảo văn hoá ngoại lai đồi truỵ mất gốc phản động. Đi đầu là xe phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh xung kích bài trừ văn hoá dâm ô phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp hàng bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ Thành phố, số 4 Duy Tân. Đoàn diễu hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều có một tấm biểu ngữ trên tay…”336.

Người dân đã đổ xô ra hai bên đường xem rất đông. “Bản hiệu triệu” mà “đoàn diễu hành” đã dùng loa phóng thanh phát oang oang, có đoạn: “Mỹ đã cút, ngụy đã nhào, Miền Nam đã hoàn toàn giải phóng… Tuy vậy, còn rất nhiều khó khăn phải khắc phục. Dù đế quốc Mỹ đã nhục nhã rút lui, bọn Ngụy quyền và tay sai đã tan rã, nhưng sau hơn hai mươi năm cai trị, chúng đã để lại một xã hội băng hoại, sađoạ, đầy rẫy người ăn xin, cao bồi, gái điếm, nghiện ngập; một nền kinh tế ăn bám, thiếu sản xuất; một nền văn hoá nô dịch, mất gốc, đồi truỵ, phản động. Cùng vớisự xâm lăng bằng súng đạn, xâm lăng kinh tế, chúng nó đã cho xâm nhập hàng loạt sách báo, phim ảnh dâm ô, cổ động chủ nghĩa khoái lạc vật chất, xô đẩy thanh niên vào hố sâu tội lỗi. Bọn tay sai bán nước, trí thức vong bản đã đầu độc quần chúng, thanh niên, học sinh sinh viên bằng những tư tưởng phản động, ru ngủ,bưng bít lịch sử, chống lại Cách mạng. Đứng trước những tàn dư do Mỹ Thiệu để lại, đứng trước yêu cầu của Cách mạng nhằm tạo dựng một nền sống mới, một con người mới từ suy nghĩ tới hành động, nhiệm vụ của đồng bào và thanh niên ta hiện nay là tẩy xoá tận gốc rễ nền văn hoá nô dịch mất gốc, đồi trụy, phản động để thaythế vào đó một nền văn hoá dân tộc, cách mạng và lành mạnh… ”337.

Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, “đồng bào và các tiệm sách đã đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lý cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên đường Hai Bà Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc biệt, cùng ngày này, 22-5-1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn 3 đã tự nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ Văn hoá đồi truỵ phản động bốn ngàn cuốn sách các loại”338.

Ông Võ Văn Kiệt nhìn nhận, ngay từ ngày 28-5-1975, Quân quản đã cảnh báo thanh niên, sinh viên học sinh: “Chúng ta không bao giờ chủ trương đốt sách”, và nói rõ “Chiến dịch chỉ thu hồi các sách báo mang nội dung đồi trụy, đầu độc tinh thần thanh thiếu niên, bóp méo xuyên tạc cuộc chiến dành độc lập tự do của dân tộc”. Tuy nhiên, trong một không khí hết sức cách mạng được lãnh đạo bởi người mới từ trong rừng ra, sự “nhầm lẫn”, sự “quá tay” là không tránh khỏi. Các đội “thanh niên xung kích” nhiều khi đã không cần phân biệt những sách y học có vẽ cơthể người với những tranh ảnh khỏa thân khiêu dâm, không phân biệt sách triết học với sách chống cộng. Nhiều trí thức đã tìm gặp ông Kiệt để phản ánh tình hình, nhưng, như ông Kiệt nhìn nhận: “Cả tôi và chính quyền đã phải mất khá lâu mới nhận ra những sai lầm đó”339.

Điều khó khăn theo ông Dương Đình Thảo, giám đốc Sở Văn hóa Thông tin, là làm sao để xác định như thế nào là một văn hoá phẩm xấu. Một cơ quan tuyển chọn đánh giá văn hóa phẩm sau đó đã được ông Võ Văn Kiệt cho thành lập. Tuynhiên, trước khi có những đánh giá cẩn trọng, các nhà báo cách mạng đã thỏa sức đưa ra các tiêu chí của mình.

Tư Cua, một cây viết “cà rỡn” trên mục Sài Gòn Đó Đây của báo Sài Gòn Giải Phóng đã mượn chuyên mục của mình để “tuyên ngôn” nhiều giá trị văn hóa đậm màu quân quản: “Một đồng bào và cũng là độc giả của báo Sài Gòn Giải Phóng đến toà soạn than thở: Trên một chuyến xe buýt Sài Gòn – Lăng Cha Cả, ngày 29-5, chiếc xe mang số EG 6198, đồng bào rất bực mình vì phải nghe chủ xe mở băng nhạc gồm những bản nhạc rã rời, rên rỉ, dã dượi như người mất hồn: “Khi biết em mang kiếp cầm ca / Đêm đêm phòng trà / Mang tiếng hát cho mọi người”. Độc giả này than phiền rằng giữa lúc mọi người đang phấn khởi xây dựng một xã hội mới mà ông chủ xe buýt lại cho đồng bào nghe những thứ mà hồi Mỹ-Ngụy chúng nó dùng để ru ngủ tuổi trẻ, như thế có phải là trật đường rầy không?… Thời buổi này làm chi còn có cái “kiếp cầm ca”, còn đâu có “đêm đêm phòng trà”, làm chi có chuyện “chỉ còn anh thôi, chỉ còn em thôi”… Bây giờ là lúc ta có tất cả, còn tất cả, chớ đâu có cái lạc lõng bơ vơ, sờ soạng “chỉ còn anh, chỉ còn em” như thế”340.

Tư Cua còn định nghĩa về “sách xấu”: “Nghe nói, trong đám sách ngổn ngang đó, có những tác giả nay đã phủ nhận quê hương, xa lìa dân tộc, chuồn ra ngoạiquốc, làm nô lệ đi xin cơm, xin áo ở xứ người! Họ biết không nhỉ! Nghe nói, trong số đám sách ngổn ngang đó, có những cuốn sách đã ru ngủ họ trong suốt hai mươi mốt năm dài chiến tranh và mất nước, ngược lại đã đánh thức những “con heo” trong lòng họ dậy và đã biến cả Sài Gòn thành một “ổ điếm khổng lồ”341.

Ngà y 30-10-1975, trên báo Sài Gòn Giải Phóng, chính quyền công bố một danh sách năm mươi sáu tác giả có tác phẩm bị liệt vào hàng “phản động, dâm ô, đầuđôc̣ ”, bi ̣cấ m lưu hà nh, trong đó có Hoà ng Ngoc̣Liên, Hà Huyề n Chi, Phan Nghi,̣ Võ Hữ u Haṇ h, Nguyên Vu,̃ Lê Xuyên, Nhã Ca, Văn Quang, Chu Tử , Doãn Quố c Sı,̃ Thanh Tâm Tuyề n, Mai Thả o, Dương Nghiễm Mậu.… Nhưng, ngay khi những cuốn sách đầu tiên bắt đầu được đốt ngoài đường bởi Thành đoàn, cũng như nhiều chủ nhà sách khác, chủ nhà xuất bản Cảo Thơm, ông bà Hồ Hải Trần Thế Nam342, đã họp với cộng sự của ông là gia đình ông bà Nguyễn Đức Phong, bàn việc xử lý kho sách lưu trữ của Cảo Thơm.

Trước năm 1954, ông Hồ Hải đã từng có một tiệm sách ở Bờ Hồ. Khi rời Hà Nộidi cư vào Sài Gòn, ông cho xuất bản Vang Bóng Một Thời, tập sách được coi là đẹp nhất thời bấy giờ. Chính quyền Sài Gòn thời Ngô Đình Diệm lúc đầu cấm vì tác giả của nó, nhà văn Nguyễn Tuân, đang sống ở Hà Nội, nhưng bộ máy kiểm duyệt sau đó đã chấp nhận. Cuối thập niên 1960, ông Trần Thế Nam cùng với ông Nguyễn Đức Phong thành lập nhà xuất bản Cảo Thơm. Do ông Phong đang là công chức nên ông Trần Thế Nam đứng tên.

Ngay sau khi quân Giải phóng vào Sài Gòn, cũng như các cơ sở in ấn khác, nhà in số 326/20 Võ Di Nguy343 của Cảo Thơm bị chính quyền Quân quản quản lý. Số sách vở để bên nhà 326/18 bắt đầu được phân ra: Những tập sách khảo cứu của Nguyễn Hiến Lê, sách Lịch sử Triết học Đông phương của Giản Chi, thơ Nguyễn Nhược Pháp, Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân… thì được chia nhỏ, giao cho người già, trẻ em mang đi giấu hoặc gửi ở nhà người quen344. Những sách “thị trường” khác thì Cảo Thơm huy động toàn bộ nhân lực trong hai gia đình, xé ra rồi âm thầm bán cho các bà đồng nát345.

Cạo râu

Từ “văn hóa phẩm”, Cách mạng muốn thay đổi đến tận gốc rễ cuộc sống của người dân. Tháng 10-1975, đợt phát động thanh niên “hớt tóc ngắn, sửa quần áo lai căng” bắt đầu được triển khai. Ở Quận 10, Đoàn Thanh niên Cộng sản liên tục mở nhiều cuộc thảo luận về “tư cách tác phong của người thanh niên” và Quận Đoàn đã đi đến quyết định: “Hớt tóc ngắn, sửa lại áo, eo quần loe, quần bó, không mang áo hở ngực, không ăn mặc lố lăng, sặc sỡ… Quận đoàn đã liên hệ với một số tiệm hớt tóc và nhà may để giới thiệu anh em đến hớt tóc và sửa lại áo quần với giá rẻ và mở ba địa điểm hớt tóc miễn phí tại phường Nhật Tảo và tại trụ sở quận đoàn”346.

Khi tường thuật một “phiên tòa quân sự”, trước khi nói rõ tội trạng của các bị cáo, báo chí đã dành nhiều dòng để bày tỏ thái độ của Chính quyền Cách mạng về lối sống: “Lúc ấy là 13 giờ15 ngày 23-12-1975. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía vành móng ngựa khi Thượng tá Chánh thẩm truyền đưa hai can phạm vào. Cả hai đều để tóc dài phủ gáy, đều rất trẻ nhưng vẻ mặt hiện rõ nét ăn chơi, trác táng.

Tên mặc áo sơ mi trắng bỏ ngoài quần, không cài nút cổ, là Đặng Vũ Trường, sinh viên năm thứ nhất. Tên mặc áo đen nâu phủ ngoài một chiếc áo sơ mi vàng sậm là Nguyễn Đắc Hy, quê quán ở An Cựu Đông, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Cả hai đều bị bắt quả tang vào lúc 17 giờ 30 ngày 21-12-1975, ngay sau khi chúng nổ sáu phát súng vào người anh Nghiêm Mạnh Chu để đoạt chiếc Honda-50 kiểu nữ”347.

Chuyện “hớt tóc ngắn, sửa quần ống loe” không chỉ do những phong trào tự phát của “Cách mạng 30-4”. Ngay từ ngày 3-5-1975, Ban Bí thư đã có Điện số 610: “Gửi: Trung ương Cục, anh Sáu, anh Bảy – Bộ Chính trị trao đổi ý kiến thấy rằng trong điều kiện ta thắng to và nhanh, gọn, thế ta mạnh, cho nên càng sớm ổn định mọi mặt càng tốt. Đối với quần chúng cơ bản phải giải thích chính sách, ổn định tư tưởng, làm cho họ tích cực hồ hởi tham gia bảo đảm trận tự an ninh… Đối với báo chí, nên có chủ trương rộng rãi, có cách lãnh đạo thích hợp, như vậy có lợi cho ta trên mặt trận dư luận rộng rãi. Đối với cách ăn mặc của dân, không nên dùng mệnh lệnh cấm đoán, làm phiền phức cho dân mà nên dùng giải thích thuyết phục,khuyên bảo để tránh những kiểu ăn mặc càn quấy, không để dân lầm lẫn rằng ta chống việc ăn mặc đẹp. (Lê Văn) Lương”.

Có những người dân Sài Gòn, khi thấy “quân Giải phóng” tràn về đã nhuộn đen quần áo của các thành viên trong gia đình. Trong những show diễn hiếm hoi sau ngày 30-4-1975, nhiều nghệ sỹ Sài Gòn lên sân khấu mà không dám trang điểm. Nhiều người nghĩ một cách chân thành, Cách mạng về là không còn son phấn và giày cao gót. Nhưng những thứ quần áo mà công điện của Ban Bí thư gọi là “lai căng” đó chỉ một thời gian ngắn sau lại trở thành sự thèm khát của những thanh niên “lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa”.

Khi chiến tranh chưa kết thúc, ít có thanh niên miền Bắc nào có hơn hai bộ áo quần, chủ yếu bằng vải sợi xanh; ít có cô gái nào có được cái quần lụa và chiếc áo “Hong Kong” bằng vải “phin”. Sau ngày 30-4-1975, khi những cán bộ miền Namtập kết được lần lượt về thăm quê, một số bộ đội cũng bắt đầu được xuất ngũ hoặc về phép thăm nhà. Trong cuộc họp ngày 16-6-1975, Ban Bí thư đã cho “một số ý kiến” bổ sung Chỉ thị 181 của thủ tướng, theo đó: “Việc kiểm soát sự ra vào vùng mới giải phóng cần được tăng cường chặt chẽ nhằm thỏa mãn yêu cầu của cán bộ và nhân dân đi lại thăm viếng gia đình ở miền Nam, nhưng đồng thời để phòng bọn xấu lợi dụng cơ hội để buôn lậu và phá rối trị an. Việc mang theo hàng hóa từ miền Nam ra miền Bắc phải được kiểm soát chặt chẽ, ngăn cấm bọn buôn lậu đầu cơ; nhưng mặt khác, đối với cán bộ và nhân dân cần có những quy định rõ ràng cho phép họ được mua sắm và mang theo một số đồ dùng riêng cho bản thân họ, tránh tình trạng bắt giữ lung tung, gây căng thẳng không cần thiết”. Tuy nhiên, miền Bắclúc đó đã phải rất vất vả để chống lại những biểu hiện “văn hóa lai căng” không chỉ lây lan từ miền Nam348.

Ngay tại Sài Gòn, những người vừa được “giải phóng” đã biết dùng những biểu tượng của chế độ làm thơ ta thán về sự bất bình thường của Chế độ: “Các-mác (Karl Marx) mà đến Việt Nam / Râu dài róc rậm công an bắt liền / Các-mác cầu cứu Ăng-ghen (Angel) / Ăng-ghen cũng phải đóng tiền tóc râu / Truyền cho bốn biểnnăm châu / (Đến Việt Nam thì nhớ) Râu Mao Chủ tịch tóc đầu Lê nin (Lenin)349” . Lúc đầu ông Võ Văn Kiệt cũng không hiểu tại sao người dân Sài Gòn lại không ủng hộ Cách mạng bảo vệ “thuần phong mỹ tục”. Tuy nhiên, vốn là một nhà lãnh

đạo kháng chiến khá nhạy cảm trước các phản ứng của dân, ông Kiệt yêu cầu tổng biên tập Tuổi Trẻ, khi ấy là ông Võ Như Lanh, tổ chức làm sao để ông nghe đượcthanh niên nói thật.

Báo Tuổi Trẻ liền cho mời thanh niên thuộc các thành phần khác nhau, những người đã bị cưỡng bức cắt tóc, cắt quần, đến phòng họp của báo. Trước đó, ông Võ Văn Kiệt và Thư ký Nguyễn Văn Huấn đã đến sớm, ngồi “buông rèm” phía sau lắng nghe.

Những bức xúc, dồn nén đã được các thanh niên Sài Gòn nói ra. Họ không biết một ông “Việt Cộng gộc” cũng đang “tâm trạng” lắm khi nghe họ nói. Theo ông Võ Như Lanh, khi những thanh niên này về hết, kéo rèm ra, thấy ông Võ Văn Kiệt ngồi lặng, mặt rất đăm chiêu. Khi ấy, chưa phải là ông Kiệt đã đồng ý hoàn toàn với những “đòi hỏi” của thanh niên, nhưng ông nhận ra ngay là các giá trị văn hóa không thể được ứng xử bằng những đám đông nồng nhiệt.

Không chỉ có trong lĩnh vực chính trị, văn hóa, trên nhiều mặt của đời sống, người dân miền Nam chỉ mong có được những điều kiện sống mà họ đã có trước khi được những người anh em “giải phóng”. Ngay từ cuối thập niên 1960, trong khi ở miền Bắc xe đạp cũng rất hiếm người có mà đi, ở miền Nam người dân đã có thể sở hữu ô tô, còn xe máy hai bánh thì tới đầu thập niên 1970 đã trở thành phương tiện giao thông cá nhân phổ biến350.

Trước khi “được giải phóng”, xăng dầu phục vụ cho các loại xe có động cơ lúc nào cũng sẵn sàng. Nhưng, để thi hành Nghị định 18 của Chính phủ, ngày 12-9-1975, Ủy ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định đã ra thông cáo về việc “cấm tồn trữ và bán xăng dầu trên thị trường tự do”. Cùng ngày, Tổng cục Vật tư ra thông báo yêu cầu đến hết ngày 18-9-1975, những ai đang tồn trữ xăng dầu đều phải khai báo và tự bảo quản cho đến ngày 19-9-1975, ngày nhà nước trưng mua toàn bộ xăng dầu. Sau ngày đó, “tư nhân mua bán, đổi chác hoặc tồn trữ xăng dầu bị coi là phạm pháp”351.

Bắt đầu ngày 29-12-1975, xăng dầu bắt đầu được cung cấp theo chế độ tem phiếu. Người dân phải “mang theo tờ khai gia đình, thẻ chủ quyền, thẻ căn cước, giấ y giớ i thiêụ của cơ quan hiêṇ đang công tá c, mang theo tiề n lệ phı́ mỗi phiế u 0,04 đồng” để đăng ký lấy phiếu cung cấp xăng”.

Chính sách tập trung quản lý các nguồn nhiên liệu và độc quyền xuất nhập khẩu vào tay nhà nước đã làm cho tình trạng khan hiếm xăng dầu trở nên nghiêm trọng. Từ năm 1976, một phần xe cộ bắt đầu bị xếp xó vì không có nhiên liệu hoặc không có phụ tùng thay thế. Ban liên lạc công thương đã phải “hướng dẫn một số nhà tư sả n công nghiêp̣ á p duṇ g nhiề u sá ng kiế n có giá tri ̣trong sả n xuấ t, phuc̣ vụ đờ i số ng nhân dân”. Sá ng kiến sá ng chú ý nhấ t là viêc̣ “chế taọ thà nh công” môṭ loaị chấ t lợp vớ i giá thà nh hạ được đăṭ tên là ca-rô-đa (viế t tắ t tên nhữ ng nguyên liêụ , vâṭ liêụ cấ u taọ ra nó là cao su, rơm, đấ t) của môṭ số nhà tư sả n thuôc̣ ngà nh chế biế n cao su và nhựa dẻ o. Hợp chấ t nà y có đăc̣ tıń h mề m, không tắ t lử a, không hút nó ng, rấ t tiêṇ duṇ g trong viêc̣ lợp nhà , là m măṭ bàn, măṭ giườ ng352.

Đích thân Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt cũng phải lăn lộn ở những cơ sở chế biến than quả bàng353. Các xưở ng đúc gang thì tìm tòi chế tạo những lò nấ u than quả bà ng bằ ng đấ t có vỏ bằ ng gang. Còn các nhà tư sả n thuôc̣ ngà nh nông lâm cơ thì đã “cả i tiế n thà nh công” xe ô tô chaỵ bằ ng than là củi: “Bộ phâṇ lò hơi của xe ô tô chaỵ than củi có thể sử duṇ g cho cá c loaị má y bơm nướ c, má y tà u, má y điêṇ : Lâm trườ ng La Ngà , hãng kem Pé c-lông đang sử duṇ g loaị xe cả i tiế n này”354.

Cùng với chính sách cải tạo trong lĩnh vực kinh doanh vận tải, sự khan hiếm nhiên liệu cũng làm thay đổi địa vị con người. Hình ảnh hành khách được các lơ xe đón tận nơi, nâng từng túi hành lý, đỡ lên những chiếc xe máy lạnh của các hãng xe đò tư nhân Liên Hiệp, Hiệp Thành, Đông Á, Đại Nam, Phi Long, Tiến Lực từng “chạy suốt” ra Bắc, chỉ mấy tháng sau ngày 30-4-1975 đã nhanh chóng biến mất. Mỗi khi có việc đi xa, người dân phải xếp hàng từ nửa đêm ở bến xe, nhưng sáng ra cũng không chắc có thể mua được vé. Lên xe rồi còn phải chịu sự hành hạ của những chuyến xe già nua, cũ nát không có phụ tùng thay thế; đường sá xuống cấp không có kinh phí bảo trì. Vô phúc đi trên những chiếc xe “cải tiến thành công” từ chạy xăng sang chạy than, nếu may mắn tới đích, thì ngoại trừ hai con mắt, từ đầu đến chân của mọi hành khách đều bị bọc trong khói bụi.

Thêm nữa, không phải cứ có tiền là có thể đi lại. Từ ngày 4-1-1977, việc “đi lại của nhân dân và cán bộ” đều phải có giấy tờ. Đi lại trong phạm vi thành phố và các tỉnh thành phố đều phải xin phép, phải đưa giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và giấy căn cước hoặc giấy chứng nhận cải tạo nếu có, đến công an phường, xã trình bày lý do xin đi sẽ được xét cấp. Người đi đến các vùng bờ biển thì phải mất nhiều ngày và không chắc được cấp giấy đi đường vì chính quyền chống dân vượt biên355. Trong khi đó, trên các diễn đàn, chính quyền tiếp tục ngợi ca “những giá trị mới” mà người dân đang “được hưởng”.

“Cách mạng là đảo lộn”

Tại Sài Gòn, kể từ sau 30-4, ông Trần Bạch Đằng, với danh nghĩa là Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Giải phóng, thường xuyên nói chuyện tại Câu lạc bộ Thanh niên Thành phố. Quan điểm của Trần Bạch Đằng lúc ấy đóng một vai trò quan trọng trong việc “định hướng thẩm mỹ Cách mạng” cho người dân miền Nam.

Trong một bài phỏng vấn đăng trên Tuổi Trẻ, Trần Bạch Đằng cho rằng “không nên có chủ trương cho thiếu nhi ca vọng cổ”. Ông nói: “Tuy vọng cổ phổ biến ởnước ta, đặc biệt ở Nam Bộ, nhưng đối với lứa tuổi nào đó, tỷ như các em nhi đồng và thiếu niên, thì vọng cổ chưa hẳn có lợi hoàn toàn trong mục đích giáo dục… Âm điệu vọng cổ thường khó gây phấn chấn và nhứt là hạn chế tập thể trong khi biểu diễn tập thể lại là hình thức biểu diễn cần khuyến khích hiên nay”356.

Theo ông Trần Bạch Đằng: “Một trong những tội ác tày trời của đế quốc Mỹ và bọn tay sai” là “phủ nhận cái đẹp chân chính, cái đẹp về nội dung, cái đẹp tinh thần” và “cổ vũ cho cái đẹp hình thức, cái đẹp giả tạo, cái đẹp vật chất đơn thuần”. Sau khi chỉ trích các mỹ viện đua nhau ra đời theo sau sự “triển khai ồ ạt của chủ nghĩa thực dân mới” tại miền Nam, ông Trần Bạch Đằng kết luận: “Nói cho cùng, chủ nghĩa thực dân mới mang đến cho một bộ phận thanh niên ta cái đẹp của người nô lệ, một cái đẹp vay mượn. Muốn giữ cái đẹp kiểu đó thì phải suốt đời mất nước, suốt đời ăn xin”. Rồi ông kêu gọi thanh niên “đi vào lao động, phát giương cái đẹp của lao động đối với thanh niên, định lại chân lý, định lại giá trị của con người”357. Ông Trần Bạch Đằng nhấn mạnh: “Đó là một cuộc cách mạng, một cuộc cách mạng rộng lớn, sâu sắc, một sự đảo lộn và là một sự đảo lộn cần thiết”358.

Cùng thời gian đó, chính quyền cho phát hành tại Miền Nam một loạt sách báo cách mạng như: Học Tập Và Làm Theo Gương bác Hồ Vĩ Đại; Sống Như Anh (viết về liệt sỹ Nguyễn Văn Trỗi); Chuyện kể về Lý Tự Trọng, một người cộng sản chết trẻ với câu nói được cho là của anh và được Đoàn sử dụng như là một tuyên ngôn: “Con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng chứ không còn con đường nào khác”. Đặc biệt, cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ cộng sản – Thép Đã Tôi Thế Đấy – bắt đầu được đưa đến miền Nam. Đây là cuốn tiểu thuyết từng được dịch ra bảy mươi thứ tiếng do nhà văn Nga Nikolai Alexeevich Ostrovsky viết trong thời kỳ Stalin. Nhân vật chính của cuốn sách là Pavel Korchagin, được coi là “hóa thân” của Ostrovsky.

Phương châm sống của Pavel đã được chép lại trong hàng triệu cuốn sổ tay: “Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đãhiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người”. Thời gian đó, không ít thanh niên ngoài đời và thanh niên là nhân vật của những tác phẩm văn học mới, mỗi khi thấy “dao động”, lại ghi vào Nhật Ký: “Đồng chí Pavel ơi! ”359.

Các đoàn nghệ thuật Cách mạng, số từ trong rừng ra, số từ ngoài Bắc vào bắt đầu chiếm lĩnh các sân khấu Sài Gòn. Nhân dịp 2-9-1975, ngày Quốc khánh nướcViệt Nam Dân chủ Cộng hoà, 1.300 diễn viên từ các đoàn nghệ thuật đã tập trung ở Sài Gòn chuẩn bị cho những chương trình biểu diễn mới. Đặc biệt, Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị, Đoàn Ca Múa Quân Giải phóng, Đoàn Ca Múa Phòng Không Không quân, Đoàn Văn Công Hải quân, Đoàn Cải lương Giải phóng, Đoàn Kịch nói Nam Bộ, Đoàn Kịch nói Hà Nội… cũng bắt đầu đến Sài Gòn với các vở diễn như: Tiền Tuyến Gọi, Lam Sơn Tụ Nghĩa…Sài Gòn cũng không còn “Nỗi Buồn Hoa Phượng” với tiếng hát Thanh Tuyền; không còn “Chuyện Một Chiếc Cầu Gãy” với Hoàng Oanh; không còn “Đêm Đông” với Bạch Yến; không còn “Tà Áo Xanh” với Lệ Thanh; không còn được “Ngậm Ngùi” với Lệ Thu và, cho dù đang bị kẹt lại, Thái Thanh cũng không còn được hát Phạm Duy, Phạm Đình Chương… Chỉ những “nghệ sỹ Ngụy” được xếp vào hàng “không chống đối cách mạng” và được Hội Văn Nghệ cho làm tự kiểm điểm mới bắt đầu được bước lên sân khấu.

“Vua vọng cổ” Út Trà Ôn tự kiểm điểm với Cách mạng: “Tôi chỉ có một khuyếtđiểm không sửa được là có 5 bà vợ; còn đối với Cách mạng thì tôi trong sạch”360. Chỉ một thời gian ngắn sau, Út Trà Ôn liên tục “lên sóng” với bài vọng cổ có tên “Đài Hoa Dâng Bác”. Nhờ những mối quan hệ đặc biệt, nữ nghệ sỹ Bạch Tuyết, người từng tham gia ký tên lên trái bom mà các phi công Sài Gòn mang ném ra miền Bắc, cũng bắt đầu được diễn trở lại. Những người không thực sự được nâng đỡ thì chỉ có thể bước lên các sân khấu nhỏ. “Nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân lập đoàn gồm Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Lan… bữa đói, bữa no, ngủ đình, ngủ chợ, mong được hát nhiều hơn là kiếm miếng ăn dẫu rằng ai cũng đói”361.

Ở các rạp chiếu bóng, những phim cũ cũng biến mất, nhường chỗ cho những phim của Liên Xô, Trung Quốc như: Bạch Mao Nữ, Cát Đỏ, Những Người Báo Thù Không Bao Giờ Bị Bắt… Lúc đầu, người dân Sài Gòn chưa quen những loại phim này, các rạp kêu rất dữ vì có những suất chiếu chỉ có 14-15 người xem. Người dân cũng đã phản ứng trước một số chương trình biểu diễn của các đoàn văn công miền Bắc. Theo Điện đề ngày 17-6-1975 của Ban Bí Thư, do “ông Lành” (Tố Hữu) ký gửi “anh Tư Ánh” (Trần Bạch Đằng): “Về việc các đoàn văn công biểu diễn gần đây bị quấy rối nhiều như điện anh đã báo, đề nghị các anh kiểm tra kỹ tình hình cùng cấp ủy địa phương có biện pháp tích cực ngăn chặn những hoạt động mất trật tự, phải giáo dục quần chúng”.

Chính quyền cũng nhận thấy không thể buộc người dân miền Nam phải “cai” những nhu cầu tinh thần đã gắn bó với họ hàng thập kỷ. Tuy nhiên, theo giám đốcSở Văn hóa Thông tin Sài Gòn sau 1975, ông Dương Đình Thảo: Khi cho các nghệ sỹ diễn lại các vở cải lương ăn khách ở miền Nam như Lá Sầu Riêng, Đời Cô Lựu, lập tức có phản ứng: “Thành phố đang vui vẻ đi lên thế này sao cho diễn những tuồng rên rỉ ấy”. Nhưng khi các nghệ sỹ Sài Gòn cố gắng diễn những vở “tráng ca”, không chỉ “dư luận” mà ở bên hành lang Quốc Hội nhiều vị khá quan trọng đã than phiền, “Thành ủy TP HCM để cho ‘nghệ sỹ Ngụy’ đóng cả Hai Bà Trưng”.

Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại, đấy không chỉ là sự ganh tị trong giới mà còn là nhận thức ấu trĩ về chính trị của khá nhiều lãnh đạo. Ông đặt câu hỏi: “Ở Sài Gòn nếu đòi hỏi người xứng đáng theo tiêu chuẩn chính trị để đóng Hai Bà Trưng thì chỉ có BàĐịnh; đóng Lenin thì chỉ có Bác Tôn thôi. Các anh cứ mời các vị ấy đóng xem thử có ai đi coi không?”362.

Dưới góc độ con người, những văn nghệ sỹ đến từ miền Bắc cũng có nhiều tâm trạng. Năm 1976, nhà thơ ba mươi sáu tuổi Vũ Quần Phương363 khi từ miền Bắc vào thấy “Cô ca sĩ Sài gòn hát bài hát Trường Sơn”, đã viết:

Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn

Bài hát viết từ rừng le, rừng khộp

Năm ấy Sài Gòn lô nhô cao ốc

Em chưa biết gì về rừng khộp, rừng le

Anh lên xe trời đổ cơn mưa

Mưa chưa ướt vai em khi ấy

Rau hết rồi, măng rừng anh hái

Hái măng rừng chưa có em đi

Trường Sơn đông gánh gạo rừng khuya

Cô gái ấy gánh đi, chứ em chưa biết gánh

Thuở cô ấy ở rừng em ngồi phòng máy lạnh

Cô gái ấy không về và em hát hôm nay.

Đêm Sài Gòn đỏ rực cờ bay

Trước sân khấu, tôi ngồi nghe em hát

Em tô đỏ môi son, em kẻ xanh mi mắt

Cô gái ấy ở rừng không có gương soi

Bài hát như bàn tay còn ấm mồ hôi

Em đang vịn và đi từng hồi, từng nhịp

Những vui buồn đã xa, hôm nay em mới biết

Cô gái ấy rất hiền sẽ dắt tiếp em đi.

Ông Vũ Quần Phương thừa nhận, bài thơ này đã được hình thành ngay từ những ngày đầu ông tới Sài Gòn, tháng 5-1975. Hôm ấy, tại Sài Gòn, có một cuộc gặp mặt giới văn nghệ của cả hai miền. Ông Phương, phóng viên Đài tiếng nói Việt Nam, được cử đi đón nghệ sỹ Kim Cương. Nữ sỹ Kim Cương khi ấy cũng tỏ ra giản dị, thay vì đi xe hơi riêng đã chấp nhận ngồi sau xe Honda do ông Phương chạy. Ông Phương nói với nữ sỹ: “Chị ngồi cẩn thận bởi tôi lái xe máy chưa quen”. Nghệ sỹ Kim Cương đùa: “Anh yên tâm, nếu tôi có bị gì mai anh xách chiếc xe ‘làm Kim Cương té’ này ra chợ trời bán là được giá lắm”. Ông Phương hiểu sức mạnh công chúng trong thông điệp như đùa đó của Kim Cương.

Đêm ấy, cho dù các nghệ sỹ Sài Gòn đã cố gắng ăn mặc giản dị, họ vẫn “sáng rực” hơn so với những người từ miền Bắc vào hoặc từ trong rừng ra. Nhà thơ VũQuần Phương nói: “Khi nghe cô ca sỹ hát bài ‘Mắc võng trên rừng Trường Sơn’, tôi nhớ tới Phạm Tiến Duật, tác giả lời thơ của bài hát đó. Khi ấy Duật đang bị kiểm điểm không biết số phận thế nào vì bài thơ Vòng Trắng. Nhưng bài thơ chỉ bật ra khi năm 1976, trong chuyến đầu tiên sau giải phóng, các văn nghệ sỹ Việt Nam được đi Liên Xô, người ta đã để ca sỹ Trường Sơn Tô Lan Phương ở lại lấy chỗ cho một ca sỹ miền Nam. Tôi hiểu cử chỉ chính trị của các nhà lãnh đạo nhưng vẫn không khỏi chạnh lòng cho những người đã hy sinh tuổi trẻ của mình. Tuy nhiên, khi viết cái kết của bài thơ, tôi vẫn theo chuẩn mực giáo dục lúc bấy giờ, ai sớm muộn gì rồi cũng phải đi theo con đường cách mạng”. Khi ấy, không chỉ có ông Vũ Quần Phương nghĩ con đường “trở thành người tốt” cho các cô gái Sài Gòn là phải được dẫn dắt bởi các “cô gái Trường Sơn”.

Lòng người

Nhanh chóng “xóa bỏ tình trạng lạc hậu và phản động” ở miền Nam là một nỗ lực mà những người Cách mạng tin là nhân đạo. Nhưng “đôi khi, con đường đi tới địa ngục lại được đắp bởi những ý định tốt”364. Đã mất hàng chục năm sống trong rừng hoặc sống trong một xã hội khép kín, bưng bít nhưng “Cách mạng” lại quánồng nhiệt, nôn nóng giáo dục cho những người được học hành từ những xã hội cởi mở hơn, tiếp cận với thế giới đa dạng hơn. Niềm tin và sự nhiệt tình ấy lại được hỗ trợ một cách đắc lực bởi quyền lực tuyệt đối của cả một bộ máy. Cách mạng càng hăng say, càng để lại nhiều tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần cho nhữngngười dân “trong vùng giải phóng”.

Cái khí thế quần chúng nhìn thấy trên đường phố và được tường thuật trên báo chí nhà nước trong những ngày ấy không phải là những gì đang diễn ra trong lòngngười dân Sài Gòn, người dân miền Nam. Bà Nguyễn Thị Hoàng Bắc, khi ấy, đang dạy học ở trường Hoàng Văn Thụ, Nha Trang. Năm học 1976-1977, trong lớp bà có một học sinh, khi ấy đang học lớp 10, đã khắc mấy câu thơ lên bàn học:

Không muốn ngồi yên để đợi trông

Thích làm Từ Hải giữa muôn lòng.

Cộng lại những gì trong quá khứ,

Sản khoái trong lòng thoả ước mong

Theo bà thì không phải là học sinh này đã viết sai lỗi chính tả chữ “sảng” thành chữ “sản” mà học sinh ấy có ý định ghép bốn từ đầu ở các câu lại thành cụm từ: không thích cộng sản. Thái độ ấy có lẽ đã qua mấy năm tích tụ, nhưng hành độngviết ra thì chỉ là một phút bốc đồng. Có người đã báo cáo và học sinh đó đã bị bắt, bị điều tra và bị đuổi học. Bà Nguyễn Thị Hoàng Bắc kể: “Tôi và một cô giáo đồng nghiệp khác (về sau định cư ở Canada) đã cố hết sức giúp em. Hai chúng tôi đứng trước cửa lớp giờ tan học che cho một cô giáo khác lấy dao cố cạo cho hết những nét khắc sâu vào gỗ của bài thơ nhưng có người đã nhanh tay sao chép, gửi đi cho công an. Nét khắc còn lờ mờ nhưng vẫn là bằng cớ”365.

Tôn Thất Thiện Nhân366 năm 1975 đang là một học sinh cấp III. Anh nhớ lại:“Thay vì xách cặp tới trường, tôi đi lang thang. Tôi như một đứa trẻ không nhìn thấy một lối thoát nào trước mặt. Những khoảng sân trường thơ mộng trở thành chỗ cho những cô cậu con cái các gia đình tập kết hoặc được điều từ ngoài Bắc vào ‘lên mặt’ với con cái của những kẻ ‘lầm đường’. Cũng những thầy cô giáo mà học trò ngưỡng mộ ngày nào giờ trở thành những con người khác, hoảng hốt, sợ sệt. Mặc dù mấy năm trước 1975, cuộc sống của Sài Gòn đã trở nên khó khăn, nhưng không phải như những gì mà người Sài Gòn đang đối diện. Hàng tuần từ trường trở về, tôi lại thấy một đồ đạc gì đó ở trong nhà biến mất. Tôi ngạc nhiên là tại sao trong suốt nhiều ngày mẹ tôi, một cô giáo, lại chỉ thay đổi một hai bộ đồ trong khi tủ quần áo của bà có hàng chục bộ đồ dài rất đẹp. Tôi chạy vào mở tủ ra thì thấy nó trống hoác. Tôi có cảm giác sẽ không bao giờ có thể khép lại trong lòng cái cánh tủ trống hoác đó”.

Cha của Nhân trước 1975 cũng là giáo viên. Do đã từng đi lính, tuy chưa phải sỹ quan nên không phải đi cải tạo, nhưng sau 1975 ông không còn được đi dạy. Ông đã phải bươn chải vô số nghề trong đó có nghề nhảy tàu lên Long Khánh mua than củi mang về Sài Gòn bán. Mấy anh em Nhân thỉnh thoảng lại ra ga đợi ông như chờ đợi một điều gì đó khác hơn ngày thường. Một hôm, hai anh em nhìn thấy chamình, năm ấy chỉ mới gần bốn mươi tuổi, đu cạnh thành con tàu đang tiến dần vào ga, vứt bao than trước rồi nhảy xuống; không may, ông bị trượt chân. Nhìn gương mặt khắc khổ, tay chân đen đúa, bị những nhát cắt của những viên đá lót đường rày làm cho túa máu, Thiện Nhân nói: “Một cảm giác mất mát kinh khủng xâm chiếm con người tôi, hình như đó vừa là tình thương vừa là sự thất vọng về ông, về một thế hệ không còn có khả năng gượng lên được nữa”.

Không chỉ có những đứa trẻ bồng bột phản ứng bằng những câu thơ, tình cảm học trò, sự trải nghiệm “Sài Gòn giải phóng” đã giúp Đỗ Trung Quân thai nghénnhững vần thơ cũng đau như những nhát cắt của dao, nhưng nó không được dại dột khắc xuống mặt bàn để bàn tay học trò phải nhận cây còng số 8. Năm 1982, ĐỗTrung Quân viết bài Tạ Lỗi Trường Sơn367. Bài thơ cho thấy một góc nhìn của người dân Sài Gòn với những người đã “giải phóng mình”:

Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm

Các anh từ Bắc vào Nam

Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc

Các anh đến

Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác Của xì ke, gái điếm, cao bồi

Của tình dục, ăn chơi

“Hiện sinh-buồn nôn-phi lý!!!”

Các anh bảo con trai Sài Gòn không lưu manh cũng lính ngụy

Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ

Các anh bảo Sài Gòn là trang sách “hư vô”

Văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc

Ngòi bút các anh thay súng

Bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi

Vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ

Các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản

Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang”

Nổi loạn / Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn

Các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương

Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!



Những người được sinh ra không đúng cửa

Năm 1975, Đỗ Trung Quân hai mươi mốt tuổi, anh đang học năm thứ hai khoa Sử-Địa, Đại học Văn Khoa. Khi Sài Gòn “giải phóng” anh phải nghỉ học vì Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp cần thời gian để “sửa đổi chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo, đặc biệt chú trọng các môn khoa học xã hội, sao cho phù hợp với phương hướng tiến lên thống nhất dần với hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc”368.

Vì “công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày giải phóng” được Ban Bí thư coi là “nhiệm vụ cấp thiết số một”, nên ngay trong ngày 17-6-1975, Tố Hữu đã ký hai chỉ thị, 221 và 222; một đưa ra các quy định cho bậc học phổ thông, một cho bậc đại học và trung học chuyên nghiệp. Chỉ thị do Tố Hữu ký cho thấy Ban Bí thư coi giáo dục là “cấp thiết số một” và muốn “nhanh chóng xóa bỏ tình trạng lạc hậu do chính sách ngu dân và nô dịch của chế độ phản động Mỹ-Ngụy để lại”.

Chỉ thị 221 về ý nghĩa chính trị đã thúc đẩy việc xóa nạn mù chữ cho không ít người dân, nhất là ở giai đoạn “hồ hởi phấn khởi” ban đầu của Cách mạng. Ngay khi vừa “giải phóng”, Chính quyền Sài Gòn-Gia Định “hạ quyết tâm” trong năm 1975 sẽ xóa mù chữ cho 250.000/500.000 người mà Cách mạng ước tính là mù chữ. Công việc này “giữ được khí thế” cho tới tháng 9-1975 với 1.596 lớp bình dân và 53.498 học viên. Tuy nhiên, không chỉ là một chính sách với dân, chương trình “bổ túc văn hóa” này đã góp phần tạo ra một đội ngũ cán bộ sẽ đi rất xa trong Đảng.

Cũng kể từ ngày 17-6-1975, Ban Bí thư có chủ trương “đối với trường tư ở vùng giải phóng”, theo đó: “Hạn chế và cải biến từng bước, tiến tới xóa bỏ hẳn các trường tư cùng với đà cải tạo xã hội. Từ đầu năm học 1975-1976 không cho phép các tôn giáo, các đoàn thể chính trị phản động, các ngoại kiều mở trường tư, không cho phép các trường tư đào tạo giáo viên phổ thông. Các tư nhân muốn mở trườngtư phải xin phép chính quyền cách mạng”. Ngay trong năm học 1975-1976, 1.087 trường tư ở Sài Gòn-Gia Định đã bị “công lập hóa”. Chỉ thị 221 cũng quy định: “Đối với đội ngũ giáo chức của Mỹ, ngụy đã đăng ký và xin làm việc với chính quyền cách mạng, nói chung đều được thu nhận, giáo dục và sử dụng, trừ những phần tử phản động mà cơ quan an ninh xác nhận không nên cho tiếp tục dạy, những phần từ có sinh hoạt đồi trụy bị học sinh và nhân dân phản đối”369.

Những học trò miền Nam có lẽ đã khá phấn khởi khi Ban Bí thư chỉ thị: “Nay bỏ học phí trong tất cả các trường đại học và chuyên nghiệp của Nhà nước”. Thế nhưng, học phí rồi chỉ là một phần vô cùng bé nhỏ. Hàng trăm nghìn sinh viên miền Nam đã phải “dở dang đèn sách” vì Ban Bí thư “sửa đổi cơ cấu ngành học”. Theo đó: “Cần cải tạo về cơ bản các ngành khoa học xã hội (luật, văn, triết…) trước khi mở lại các khoa này. Đối với số học sinh đang học luật, văn, triết cần có kế hoạch chuyển sang học các ngành có yêu cầu lớn như sư phạm và kỹ thuật, kinh tế. Đốivới các ngành khoa học xã hội, năm học 1975-1976 chưa tuyển sinh” (Chỉ thị 222). Ngay cả điều này cũng chỉ là những trắc trở tạm thời – nếu như sinh viên của các ngành khoa học xã hội có “lý lịch rõ ràng” thì họ cũng có thể xoay xở học xong nếu muốn.

Chỉ thị 222 của Ban Bí thư đặt ra yêu cầu: “Qua con đường bổ túc văn hóa và tuyển sinh mà cải biến nhanh chóng thành phần giai cấp trong học sinh đại học vàchuyên nghiệp, tích cực tạo điều kiện cho các chiến sĩ quân giải phóng, cán bộ cách mạng, con em nhân dân lao động được vào học ngày một đông và chiếm đại đa số trong các trường đại học và chuyên nghiệp ở miền Nam. Cho các học sinh miền Nam đã tốt nghiệp lớp 10 ở miền Bắc và có gia đình ở trong Nam về học tại các trường đại học ở miền Nam. Giáo dục, bồi dưỡng và sử dụng các thầy giáo do chế độ cũ để lại, đồng thời đưa một số thầy giáo, nhất là các thầy giáo quê ở miền Nam đang công tác ở miền Bắc, có trình độ chuyên môn khá, có phẩm chất chính trị tốt, bổ sung vào đội ngũ các thầy giáo của các trường ở miền Nam để làm nòng cốt”.

Trên tinh thần chỉ đạo đó, thanh niên được chia làm “13 đối tượng” để xét tuyển sinh vào đại học. Các đối tượng được ưu tiên nhận vào đại học và trung học chuyên nghiệp gồm “anh hùng dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân, bộ đội, thương binh, thanh niên xung phong, cán bộ cách mạng, con của các liệt sĩ, con em các gia đình có công với cách mạng, con em các dân tộc ít người, con em miền Nam đã tốt nghiệp lớp 10 ở miền Bắc về Nam học, công nhân và những người lao động chân tay khác…”. Ngoài ra: “Trừ những phần tử phản động, tất cả nam nữ công dân, có lý lịch rõ ràng, có các điều kiện quy định về tuổi, bằng cấp và sức khỏe đều được quyền nộp đơn xin thi tuyển vào các trường đại học và trung học chuyên nghiệp”. Một số “đối tượng” được quyền nộp đơn, nhưng có được đi học ngay cả khi đã thi đỗ đại học hay không lại còn tùy thuộc vào quan điểm của các ban tuyển sinh về mức độ rõ ràng của lý lịch. Tính “giai cấp” thể hiện qua lý lịch đã làm tan vỡ biết bao giấc mơ của những thanh niên lớn lên sau năm 1975.

Nhiều gia đình miền Nam, trên thực tế, bị đặt ở thứ hạng 14, 15370. Nếu như các gia đình “Ngụy” coi sự phân biệt ấy là những gì phải chịu trong “cuộc bể dâu”, thìđối với nhiều thanh niên, việc Cách mạng không cho vào đại học như là “một cái tát tai nghiệt ngã… Như một thân cây đang vươn lên khao khát đón ánh nắng cuộc đời thì bị bẻ cụt ngọn”371.

Chỉ thị của Ban Bí thư từng được nhiều cơ sở Đảng thi hành theo hướng tùy tiện siết chặt hơn. Phan Vĩnh Hiệp, quê ở xã Nhơn Thọ, huyện An Nhơn, Nghĩa Bình, là học sinh giỏi vật lý cấp quốc gia nhưng vẫn bị chính quyền xã giữ lại không cho đithi ở Tiệp Khắc. Năm sau, Hiệp thi đậu vào Đại học Bách Khoa với số điểm đủ đi học nước ngoài, địa phương vẫn không cho học chỉ vì cha Hiệp, ông Phan Vĩnh Long, đã bỏ Đảng trong đợt “tố cộng” năm 1954 của Chính quyền Ngô Đình Diệm.

Nguyễn Mạnh Huy, phường Lê Hồng Phong, Thành phố Quy Nhơn, tốt nghiệp cấp III năm 1981. Cũng năm ấy, Huy thi đỗ vào Bách khoa Đà Nẵng với số điểm26,5 (Á khoa) trong khi điểm chuẩn chỉ cần 17 điểm. Thay vì có thể thực hiện ước mơ, Huy nhận được lời thông báo lạnh lùng ở Ban Tuyển sinh Tỉnh: “Không được đi học vì cha chết trận”. Như hàng triệu thanh niên miền Nam khác, cha của Huy cũng đã bị “động viên” ngay sau khi “rớt tú tài”. Năm 1965, khi Huy lên hai, cha anh,một trung úy bộ binh, đã dẫm phải mìn và chết. Mẹ Huy là thư ký đánh máy cho Sở Thông tin. Tuy là con “sỹ quan ngụy”, nhưng kể từ năm hai tuổi, Huy chủ yếu lớnlên trong nhà ông nội, vốn là một đảng viên thời kháng Pháp, ngoài ra Huy còn có một người cậu và một người dì đi tập kết. “Cuộc đời tôi, việc học của tôi bị chặn ở đây sao?”, nhật ký ngày 25-11-1981 của Huy viết.

Năm 1982, Nguyễn Mạnh Huy chọn một trường ít đòi hỏi về lý lịch hơn: Đại học Nông Nghiệp IV; kết quả: 22,5 điểm, vượt xa điểm chuẩn. Nhưng bức điện đánh từ Ban Tuyển sinh vẫn cứ lạnh lùng: “Không được đi học vì cha chết trận”. Nhật ký ngày 6-1-1983 của Huy ghi: “Một người có quyền dự báo một tương lai đen tối, nhưng bất hạnh nhất khi tự khẳng định nó là một sự thật bất biến”.

Chàng thanh niên nặng bốn mươi ký Nguyễn Mạnh Huy từ đó đi làm thợ mộc kiếm sống nhưng vẫn nhắc mình: “Đừng buông súng khi còn sức chiến đấu”. Thế rồi cho đến sát ngày thi của năm 1983, vì quá “nôn nao, bứt rứt”, Nguyễn MạnhHuy lại nộp đơn thi vào Sư Phạm Quy Nhơn, được 18,5 điểm trong khi điểm chuẩn chỉ là 12. Lần này thì Huy không buồn đi xem kết quả nữa.

Ông Võ Văn Kiệt nhìn nhận: “Khắc phục những hậu quả do chế độ cũ để lại đã khó, nhưng khắc phục những cái do chế độ mới sinh ra lại còn khó hơn”. Chuẩn bị Đại hội Đoàn Thành phố lần thứ Nhất, Ông Kiệt nói với nhà báo Thép Mới, lúc ấyđang cộng tác như một người viết diễn văn cho ông: “Tại sao hồi Đảng còn hoạt động bí mật mình không phân biệt, tại sao hồi đó mình vận động cả con em địa chủ, con em tư sản, con em các quan chức trong chế độ Sài Gòn… để giờ đây khi có chính quyền trong tay mình lại phân biệt! Nếu cứ kéo dài tình trạng này thì tới bao giờ thanh thiếu niên mới có thể hòa hợp được với nhau?”. Theo ông Phạm Văn Hùng, thư ký của Võ Văn Kiệt: “Trong khi trao đổi, ông Võ Văn Kiệt gần như buột miệng nói, ‘Không ai chọn cửa sinh ra’, làm cho cả ông Thép Mới và chúng tôi đều rất thích thú”.

Tuy nhiên, trong vấn đề “lý lịch”, tư duy theo kiểu ông Kiệt là rất “thiểu số”. Ông Kiệt nói: “Tôi suy nghĩ rất nhiều, nhưng biết thay đổi không phải là việc giản đơn vì đó là nhận thức và tính nguyên tắc của cả hệ thống”. Ngày 3-7-1977, tại Đại hội Đoàn Thành phố lần thứ Nhất, Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt phát biểu: “Thế hệ trẻđang lớn lên ở Thành phố ta, ra đời từ những hoàn cảnh xã hội khác nhau, chịu ảnh hưởng tinh thần và tín ngưỡng khác nhau. Không ai chọn cửa mà sinh ra. Đối với mỗi người trẻ tuổi đang bước vào đời, chúng ta nhìn họ như nhau, cùng là những người chủ tương lai của Thành phố. Xã hội muốn tuổi thanh xuân không mặc cảm và rất thanh thản trong tâm hồn…”. Ông kêu gọi: “Xã hội phải đối xử công bằng với tất cả lớp người trẻ đi lên với xã hội này, ai ai cũng có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau… Chúng ta lấy thực tâm, thực học, thực tài làm tiêu chuẩn, không để quá khứ ràng buộc tương lai mà hạn chế chí tiến thủ và hoài bão cống hiến của mỗi người trẻ tuổi”.

Phát biểu này của ông Võ Văn Kiệt đã không được ngay cả báo chí dưới quyền của ông đăng tải. Mãi tới hai tháng sau, báo Tuổi Trẻ mới cho đăng lá thư của “bạn đọc” Nguyễn Kỳ Tâm, nói về những bế tắc của anh vì lý lịch372 để sau đó, ngày 30- 9-1977, báo Tuổi Trẻ cho đăng tuyên bố “không ai chọn cửa sinh ra” mà ông VõVăn Kiệt đã nói tại Đại hội Đoàn vào ngày 3-7-1977. Tổng Biên tập Tuổi Trẻ từ năm 1977, ông Võ Như Lanh, thừa nhận: “Tòa soạn phải dành thời gian cân nhắc để chuẩn bị vì khi ấy không khí phân biệt lý lịch rất căng thẳng, mặc dù ông Kiệt nóivậy, nhưng Thành đoàn vẫn rất gay gắt. Thành ủy thì ngoài ông Kiệt, không có ai công khai nói gì”. Ông Võ Văn Kiệt, với vai trò hạn chế của một nhà lãnh đạo địaphương, cũng chỉ có thể xử lý vấn đề lý lịch ở tầm vụ việc373. Biết bao trường hợp vì lý lịch mà không được tới trường khi cái đúng chỉ mới tùy thuộc vào ứng xử cá nhân chứ chưa trở thành chính sách.

“Cánh cửa” Thanh niên Xung phong

Từ tháng 8-1975, ông Võ Văn Kiệt đã giao cho Thành đoàn tổ chức một lực lượng thanh niên xung phong đi “thí điểm” khai khẩn đất hoang. Cuối năm ấy, ông Võ Văn Kiệt triệu tập Ban Thường vụ Thành đoàn đến nhà riêng ông Phan MinhTánh, bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam. Vào họp, ông Kiệt giao nhiệm vụ: “Thành phố cần một lực lượng, lực lượng đó là thanh niên xung phong. Giao Thành đoàn đứng ra tổ chức, cần Thành ủy hỗ trợ gì, Thành ủy sẽ đáp ứng”. Ông giải thích: “Phải tạo ra một môi trường để mọi thanh niên đều có thể tham gia lao động để có suy nghĩ tích cực và để hãnh diện về bản thân mình”.

Ông Võ Ngọc An năm ấy ba mươi mốt tuổi, đang là ủy viên Thường vụ Thành đoàn phụ trách báo Tuổi Trẻ, nhớ lại: “Lúc đó, nghe ông Kiệt nói cảm thấy nhưđang nghe một điều gì đó thật thiêng liêng”. Sau cuộc họp ấy, ông Võ Ngọc An lãnh trách nhiệm huy động tiền bạc để may hàng ngàn bộ đồng phục xanh.

Hàng chục năm sau, nhiều người dân Thành phố nhớ tới ngày 28-3-1976, không chỉ vì tính hoành tráng của cuộc biểu dương lực lượng ở sân vận động Thống Nhất với một “rừng người” áo xanh, tay cầm cuốc xẻng, mà ở cách mở đầu bài nói chuyện của một bí thư cộng sản. Thay vì, “các đồng chí” như cách xưng hô thống trịthời bấy giờ ở trên mọi diễn đàn, ông Võ Văn Kiệt đã làm nhiều thanh niên ứa nước mắt khi nói: “Các em đoàn viên, thanh niên yêu quý!”.

Trong số hàng vạn thanh niên có mặt hôm ấy không chỉ có con em Cách mạng. Theo yêu cầu của ông Võ Văn Kiệt, Thành đoàn đã vận động được cả những thanh niên nghiện xì ke, ma túy, có người đã từng là “đĩ, điếm”, có người là “lính ngụy”. Theo ông Võ Ngọc An, trong số ấy có một đại úy Sài Gòn, cha anh đã từng bị giết nhầm bởi “Việt Cộng”. Những thanh niên ấy, từ sau ngày 30-4, thông qua cách cư xử của các cán bộ phường, thông qua những ngôn từ cao ngạo trên báo đài, biết được thân phận của mình, dám mong chi có ngày một ông bí thư gọi mình là “các em yêu dấu”.

Với tư cách là một nhà lãnh đạo Đảng, ông Võ Văn Kiệt cũng nói về truyền thống theo cách của mình: “Tôi cũng xin phép được bày tỏ với lứa tuổi hai mươi của đất nước đã hết đau thương và từ đây thẳng đường đi tới chủ nghĩa xã hội với tất cả tấm lòng trìu mến và kỳ vọng thiết tha của những lớp thanh niên nối tiếp nhau đã từng tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ, cách mạng Tháng Tám…”. Ông nói tiếp: “Lýtưởng của họ, ước mơ của họ chính là hiện tại mà hôm nay các em đang sống. Nếu các em sau này có điều kiện ôn lại kỹ càng một giai đoạn cách mạng hùng vĩ đãqua của dân tộc, các em sẽ biết thương yêu vô hạn Tổ quốc Việt Nam nghìn lần yêu dấu. Các em sẽ mạnh lên gấp bội vì một niềm tin ở nhân dân và đất nước”.

Bài diễn văn được chấp bút bởi nhà báo Thép Mới, một người viết tùy bút nổi tiếng, tác giả của bài “Tre Việt Nam” in trong sách giáo khoa được thuộc lòng bởinhiều thế hệ. Tinh thần của ông Võ Văn Kiệt, có lúc, được ông Thép Mới thể hiện với giọng văn nồng nàn. Ông Võ Văn Kiệt, lúc này, vẫn để cho Thép Mới sử dụng hình tượng Pavel, hình tượng về một thế hệ quên mình để “tạo lập nên nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên”. Tuy không hùng hồn như ông Trần Bạch Đằng, nhưng cái đẹp củathanh niên theo ông Kiệt vẫn là lao động374. Kết thúc bài diễn văn, ông Kiệt nói: “Chúng tôi xin nhiệt liệt chào mừng những lớp công dân xã hội chủ nghĩa của thành phố chúng ta từ đây nối tiếp nhau nẩy nở và trưởng thành trên những công trường lao động tình nguyện. Chúc các em thành công thắng lợi, trên trận tuyến mới, trận tuyến lao động vinh quang”.

Không có mặt ở sân vận động Thống Nhất sáng 28-3-1976, nhưng giáo sư trung học Trần Ngọc Châu vẫn chịu ảnh hưởng bởi bài diễn văn. Năm ấy, ông Châu nằm trong toán vận động thanh niên đi thanh niên xung phong của Quận đoàn I. ÔngTrần Ngọc Châu kể: “Bài diễn văn của ông Võ Văn Kiệt được quay ronéo, chúng tôi cho họp dân ở phường, đọc những đoạn cảm động nhất”.

Theo ông Trần Ngọc Châu thì khi ấy, phường đoàn cũng có chuyện, họ lập danh sách và thường xuyên bắt tập trung những thanh niên chưa có công ăn việc làm, khiến nhiều người bất mãn. “Cộng sản” và “đồng chí” là những khái niệm rất xa cách và có khi là ác cảm với thanh niên, cho nên theo ông Châu: “Nhiều người chỉ vì thấy ông bí thư cộng sản gọi họ là em mà đi. Có người học thuộc nhiều đoạn trong bài diễn văn của ông Võ Văn Kiệt”. Ông Châu trước đó là giáo viên Anh văn, đã có bằng cao học triết, thế nhưng sau một thời gian đi vận động người khác, chính ông Châu cũng nhận ra con đường để trụ lại trong chế độ tốt nhất là phải “chọn cánh cửa” này375.

Nguyễn Nhật Ánh376 cũng đã chọn thanh niên xung phong như là một con đường để giải tỏa áp lực nặng nề của lý lịch. Sau ngày 30-4-1975, ông hàng xóm làm thợ mộc ở phường Nhật Tảo, Quận 10, bố của ba cô con gái khá xinh mà sinh viên Nguyễn Nhật Ánh dạy kèm, bỗng nhiên trở thành chủ tịch khóm, về sau là chủ tịchphường. Nguyễn Nhật Ánh, khi ấy vừa học xong chương trình đệ nhất cấp ở Đại học Sư phạm, được ông thợ mộc đưa lên phường lo việc giấy tờ. Theo “tinh thần Chỉ thị 222”, năm 1976, anh được phép tốt nghiệp sau khi học thêm tám tháng “chính trị”. Tuy nhiên, Ánh không được phân công công tác chỉ vì cha anh lúc đó đang phải đi “học tập” do từng là trưởng Ty Thông tin Chiêu hồi Tỉnh Quảng Tín377.

Nguyễn Nhật Ánh trở về phường Nhật Tảo khi cô con gái ông chủ tịch đã trở thành bí thư Phường Đoàn. Cô bí thư chiếu cố thầy giáo cũ của mình, mỗi khi có “phong trào” lại gọi Nguyễn Nhật Ánh vác loa đi đọc bản tin hoặc kẻ lên tường những câu khẩu hiệu “xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đổi lại, anh có thù lao mười ký gạo mỗi tháng. Nguyễn Nhật Ánh cũng tiếp cận bài diễn văn của ông Võ Văn kiệtthông qua những lần đi vận động thanh niên xung phong. Anh kể: “Khi mọi người đi hết, tôi chợt nhận ra, không lẽ mình cứ ăn bám bà dì hoài, năm 1977, tôi cũng lên đường”.

Chỉ huy Lực lượng Thanh niên xung phong khi ấy là ông Võ Viết Thanh. Năm 1975, khi ông Võ Văn Kiệt cần một sỹ quan trẻ biệt phái sang thanh niên xung phong, Đại úy, Tiểu đoàn trưởng Võ Viết Thanh đã được chọn. Ông Thanh nhớ lại:

“Khi xuống U Minh, tôi cũng hơi suy nghĩ, đang là một sỹ quan được quân đội trọng dụng, giờ ra nằm giữa rừng, gian khổ không kém chi thời chiến”.

Thanh niên xung phong thuộc nhiều thành phần, có người là tướng cướp, có người xuất thân là trí thức, sỹ quan, nhưng chủ yếu là thanh niên học sinh. Theo ông Võ Viết Thanh, họ chịu đựng gian khổ không thua gì những chiến binh. Giữa rừng U Minh, giữa Chiến khu Dương Minh Châu… mùa mưa thì nước ngập mênh mang, mùa khô thì phải chia từng giọt nước ngọt, ăn không đủ no, rồi thì đỉa, vắt và đủ thứ bệnh tật, nhưng chỉ có một thứ thuốc lá duy nhất để chữa là “xuyên tâm liên”. Thế mà họ đã sống với nhau không câu nệ quá khứ. Đa phần đều trưởng thành. Ông Võ Viết Thanh thừa nhận, chính ông cũng phải dần dần mới “bắt đượcnhịp sống với họ”. Ông Thanh nói: “Hơn sáu vạn con người không biết Cách mạng là gì, chỉ nghe lời ông Sáu Dân mà kiên gan, bền bỉ”.

Một năm sau ngày phát động “phong trào thanh niên xung phong”, tại cuộc gặp mặt những “đại biểu thanh niên xung phong tiên tiến”, ngày 3-3-1977, ông Võ VănKiệt đã gọi thanh niên xung phong là một “trường đại học”. Ông Kiệt cho rằng sở dĩ các chàng trai cô gái đã “trưởng thành trên nhiều mặt” là vì họ đã “thấy được tiền đồ tương lai của mình nằm trong tiền đồ, tương lai của đất nước, dân tộc… Nhiều đồng chí đã xác định với tình cảm và lý trí sâu sắc lao động là vinh quang”378.

Môi trường thanh niên xung phong ở thời điểm ấy đúng là đã tạo ra không ít câu chuyện kỳ diệu379. Trước “giải phóng”, Vũ Hoàng Vi là một tướng cướp. Lúc đầu, Vi chỉ định “trà trộn” vào lực lượng thanh niên xung phong như là một nơi để trốn.

Nhưng tung tích của Vũ Hoàng Vi bị tổ chức phát hiện. Anh không những không bị bắt mà còn được vận động thuyết phục. Lần đầu tiên, Vi nhận ra có một nơi tôntrọng mình, anh lao động tốt, được tuyên dương, được cho đi học, được đưa lên làm đại đội trưởng và về sau còn được kết nạp Đảng.

Trong những bài phát biểu với thanh niên xung phong về sau, ông Võ Văn Kiệt vẫn tiếp tục gọi họ là “các em”. Nhưng khi phát biểu với những “thanh niên tiên tiến”, ông đã gọi họ là “đồng chí”. Trong một đại hội thanh niên tiên tiến khác, ông Võ Văn Kiệt đã đưa một đội viên vốn là một tay anh chị nổi tiếng, “Bảy Đầu Bò”, ngồi chung trên ghế chủ tịch đoàn với mình.

Nếu như trong những ngày đầu, nhiều thanh niên miền Nam hết sức dị ứng với cách Cách mạng xưng hô với nhau, thì ở thời điểm ấy “đồng chí” lại là một sự thừa nhận mà nhiều thanh niên tìm kiếm.

Năm 1977, Nguyễn Nhật Ánh đang tham gia đào kênh Ba Gia ở Hố Bò, Phú Hòa. Lúc này anh đã có nhiều tác phẩm đăng trên tờ Tuổi Trẻ, nhưng với lý lịch cha là trưởng ty “chiêu hồi”, anh vẫn không được kết nạp Đoàn. Khi ấy, thanh niên xungphong ở trong những lán tranh, vách nứa, một bên là nơi ngủ của nam, một bên là nữ; phần giữa lán kê những bộ bàn ghế tạm do chính họ làm. Một buổi tối, chi đoàn nhóm họp nơi khoảng giữa lán có kê bàn ghế đó. Đang họp, một người trong Ban Chính trị Liên đội phát hiện ra Nguyễn Nhật Ánh đang nằm chèo queo trên giường, lập tức “phần tử chậm tiến” Nguyễn Nhật Ánh bị đuổi ra ngoài. Hôm ấy mưa, trời tối như bưng, Nguyễn Nhật Ánh phải đi ra, lang thang giữa rẫy khoai mì, mặt ướt đẫm vì nước mưa và nước mắt. Anh nhớ lại: “Tôi có cảm giác như bị đẩy ra khỏi đồng loại”. Nhưng cho dù cảm giác về thời đại mới ra sao thì Nguyễn Nhật Ánh cũng không có lựa chọn nào khác là phải “quay vào”, phải chứng tỏ mình là một thanh niên tiên tiến.

Ngày 26-3-1978, mười hai giờ đêm, ông Võ Văn Kiệt lên, Nguyễn Nhật Ánh, Trần Ngọc Châu và nhiều thanh niên khác được gọi dậy: bên ngoài, đuốc được đốt lên và nhiều thanh niên của chế độ cũ, trong đó có Trần Ngọc Châu, từ đêm ấy, “vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đoàn”. Theo ông Trần Ngọc Châu: “Ông Võ Văn Kiệt đến, mặc bộ đồ thanh niên xung phong, đầu đội nón tai bèo, đứng lên đánh trống. Hình ảnh một ông Kiệt sừng sững đã đọng lại trong ký ức của lực lượng thanh niên xung phong”. Ông Châu nói: “Khi ấy, vào Đoàn là thiêng liêng lắm”.

Đoàn thiêng liêng lắm, nhưng “ánh đuốc” trong đêm ấy không thể rọi sáng đến tất cả mọi người. Cũng như Trần Ngọc Châu, Nguyễn Nhật Ánh đã dùng cuốc chim, cuốc đá ong đào kênh cho đến khi hai tay tóe máu mà vẫn không được vào Đoàn chỉ vì cha là “Ngụy”. “Cánh cửa thanh niên xung phong” mà ông Kiệt thiết lập vẫn không đủ rộng cho các thanh niên miền Nam bước vào chế độ mới.

“Nổi loạn”

Nhiều thanh niên xung phong về sau vẫn nhớ về những ngày chặt cây rừng và hát tráng ca. Trong những ngày có quá nhiều người mất phương hướng ấy, phải công nhận là ông Võ Văn Kiệt đã tìm được một phương thức hiệu quả để thu hút thanh niên.

Họ đã bước vào những chuẩn mực chính trị mới do Cách mạng thiết lập, ít nhiều bằng cảm hứng. Không phải tự nhiên mà những gót son Sài Gòn bị đưa đến chốn rừng thiêng, đạp gai rừng ấy đã không trách gì ông. Họ cũng đã đi bởi niềm tin. Nhưng bộ đồng phục thanh niên xung phong không thể che hết lòng mặc cảm, bởi mặc cảm không xuất phát từ nơi mà những người thanh niên đó được sinh ra. Sự mặc cảm xuất hiện do chế độ thiết lập quá nhiều hàng rào lý lịch. Khi mà nhữnghàng rào ấy chưa được gỡ bỏ thì đồng phục cũng không tạo ra được cảm giác đồng đội, cho dù họ ngủ cùng lán, đứng cùng hàng, chưa kể những người khi ấy vẫn ở “ngoài xã hội”380.

Sau “giải phóng”, Cư xá Bắc Hải, Quận 10 trở thành nơi ở của những gia đình sỹ quan cao cấp của Cách mạng. Gia đình một số tướng, tá của “chế độ cũ” vẫn sống “xôi đỗ” ở đây. Con em các gia đình cách mạng đương nhiên là “nòng cốt”. Nguyễn Thế Dũng là một thanh niên như vậy.Dũng là con trai của Đại tá Nguyễn Thế Truyện, người được coi là “con hùm xám” khi còn là tư lệnh Sư 9. Đại tá Truyện hy sinh trong chiến dịch Mậu Thân khitấn công đợt II vào Sài Gòn. Khi ấy ông Truyện là tư lệnh Phân khu I. Sau ngày 30-4-1975, vợ con của Đại tá Truyện được đưa về Sài Gòn sống trong căn nhà T10, Cư xá Bắc Hải. Trong những năm cuối thập niên 1970, Nguyễn Thế Dũng là phó bí thư phường đoàn, được giao đi vận động, cảm hóa con em sỹ quan “chế độ cũ”.

Cô “tiểu thư” Lê Bích Thúy ở nhà T4, con gái Trung tá Lê Văn Dương, trưởng Phòng Quân sử, Quân lực Việt Nam Cộng hòa là một trong những “đối tượng” củaDũng. Nhưng cuối cùng người bị “cảm hóa” lại là Dũng. Hai người, một là con trai vị tư lệnh khét tiếng của cộng sản, một là con của một “ngụy quân” đang bị cải tạo trong tù, yêu nhau và kiên quyết lấy nhau. Mẹ Dũng khóc lên, khóc xuống. Phu nhân các đồng đội cũ của Đại tá Nguyễn Thế Truyện, lúc bấy giờ đa số đã là tướng, khuyên bà quả phụ phải phá bằng được cuộc hôn nhân. Nhưng Nguyễn Thế Dũng dứt khoát không chịu, anh sang nhà người yêu nói với bà mẹ: “Má chịu gả thì con cưới chứ nhà con không ai chịu sang đâu”. Bà phu nhân Trung tá Lê Văn Dương chỉ biết gật đầu lặng lẽ.

Chị ruột của Nguyễn Thế Dũng là nhà báo Nguyễn Thế Thanh, sau là tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành phố, chạy lên cầu cứu ông Võ Văn Kiệt. Nghe xong, ông Kiệt nói: “Mình dạy người khác không phân biệt, mình cố gắng để vợ con người ta đừng thù hận mà mình làm như thế sao người ta quên”. Rồi ông bảo: “Kêu hai đứa lên đây tao gặp”. Thế Thanh về kêu Dũng chở người yêu lên. Ông Võ Văn Kiệt tiếp hai người hết sức thân tình rồi, khi Dũng đi ra vườn, ông Kiệt hỏi Lê Bích Thúy: “Cháu có lường hết những khó khăn khi lấy Dũng không?”. Bích Thúy: “Dạ thưa, cháu yêu Dũng, cháu biết nhưng cháu chọn anh ấy”. Ông Kiệt: “Nhỡ khi đi học tập về, ba cháu không chịu thì sao?”. Bích Thúy: “Dạ không, ba cháu rất thương cháu, cháu tin là không có chuyện đó, nhưng nếu ba cháu không chịu thì cháu sẽ đấu tranh”. Ông Kiệt cho gọi Dũng vào hỏi: “Cháu có băn khoăn gì không?”. “Không!”, Dũng dứt khoát. Ông Kiệt nói: “Cháu lấy con một sỹ quan chế độ cũ thì không tránh khỏi bị nghi kỵ, bác không phải lúc nào cũng ở bên các con”. Rồi ông nói với hai đứa trẻ: “Giờ bác Sáu thay mặt ba, bác ủng hộ tụi bây”. Sau đó, ông Võ Văn Kiệt gặp bà quả phụ Đại tá Nguyễn Thế Truyện và ông chỉ dặn: “Thôi chuyện mấy đứa nhỏ chị cứ để cho tụi nó tính”.

Năm 1982, khi Trung tá Lê Văn Dương được tha về, con gái ông đã có con với con trai một người cộng sản. Ông chủ động qua nhà T10 gặp bà đại tá nói: “Tôi đi học không biết là hai nhà chúng ta đã thành thông gia, âu cũng là số phận lịch sử. Tôi đi, cũng học được nhiều điều, bác trai đã hy sinh, hai gia đình gặp nhau trong tình thông gia thế này cũng là điều tốt”. Rồi khi thắp hương cho Đại tá Nguyễn ThếTruyện, Trung tá Lê Văn Dương khấn: “Thưa bác, tôi là Lê Văn Dương cha của con dâu bác, xin thắp nén nhang này báo với bác, chúng ta giờ là thông gia của nhau”.

Tình yêu tự thân nó không phân chia lý lịch. Nhiều cuộc tình thanh niên xung phong cũng chịu ngang trái, có người cũng may mắn như Nguyễn Thế Dũng và Lê Bích Thúy nhưng cũng có những cuộc tình trắc trở. Cuối năm 1978, Đại úy Quân y Sài Gòn, Bác sỹ Thiều Huỳnh Chí đi học tập trở về, ông lên trình diện Sở Y tế và được đưa về Duyên Hải làm trạm trưởng y tế cho một đơn vị thanh niên xung phong, Nông trường Đỗ Hòa.

Vốn là một bác sỹ ngoại khoa nhưng ở đấy ông Thiều Huỳnh Chí đã tự thiết kế từ chiếc ghế nhổ răng, cái hố xí hai ngăn và nổi tiếng khắp vùng với tài đỡ đẻ. Bác sỹ Chí đã quyết định ở lại trong khi vợ ông đưa các con đi vượt biên. Giám đốc Nông trường lúc ấy là chị Võ Thị Bạch Tuyết, nguyên là một chỉ huy của phong trào đốt xe Mỹ, bị tra tấn và bị đày ra Côn Đảo nhiều năm. Những ngày làm việc bên nhau đã xích bác sỹ Thiều Huỳnh Chí và Giám đốc Võ Thị Bạch Tuyết lại gần nhau. Nhưng tình yêu của họ đã không được Thanh niên Xung phong ủng hộ.

Đảng ủy Thanh niên Xung phong kiên quyết không cho hai người lấy nhau vì Bác sỹ Chí không những là “ngụy” mà còn là một “người Việt gốc Hoa”. Ông Phan Minh Tánh nói: “Tôi hay xuống làm việc với cô Tuyết, tôi hiểu hoàn cảnh của cô ấy. Thành ủy chúng tôi ủng hộ nhưng Thanh niên Xung phong không chịu”. Sau đó, ông Mai Chí Thọ cho mời Thường vụ Đảng ủy Thanh niên Xung phong lên, hỏi họ theocách rất Năm Xuân: “Nó (chị Bạch Tuyết) lớn tuổi lại bị tra tấn không sinh nở được, giờ không cho nó lấy chồng vậy trong tụi bây có ai lấy nó không?”.

Nhà văn Nguyễn Đông Thức, thuộc lớp thanh niên xung phong đầu tiên của Nông trường Đỗ Hòa, kể: “Trước hôm đám cưới, ông Võ Văn Kiệt, khi ấy đã ra Hà Nội làm phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, đã về, xuống nông trường ngủ lại một đêm và chung vui với họ”381.

Nhưng đám cưới của một nữ giám đốc nông trường và một “đại úy ngụy” đã không tạo ra tiền lệ. Năm 1982, Đảng ủy Thanh niên Xung phong lại ngăn cản cuộc hôn nhân của Nguyễn Nhật Ánh với Trần Thị Tiếng Thu. Tiếng Thu lúc ấy đang là phó Phòng Chính trị Lực lượng Thanh niên xung phong. Bốn ngày sau khi hội nghị chi bộ Cơ quan Lực lượng “biểu quyết khai trừ ra khỏi Đảng”, “cô dâu” Trần Thị Tiếng Thu đã viết đơn gửi Ban Tổ chức Thành ủy. Đơn của Tiếng Thu khai: “Vào khoảng giữa năm 1981, tôi và đồng chí Nguyễn Nhật Ánh đặt vấn đề tìm hiểu nhau để đi đến hôn nhân. Sau đó đã chính thức báo cáo với Đảng ủy và chi bộ cơ quan (đồng chí Nhật Ánh là thanh niên xung phong hiện công tác tại Phòng Chính trị)”. Đơn của Tiếng Thu cho biết: “Trong nửa năm qua, Đảng ủy và chi bộ đã nhiều lần thuyết phục tôi cắt đứt mối quan hệ này. Đồng chí bí thư Đảng ủy, hầu hết cácđồng chí trong Đảng ủy đã lần lượt gặp tôi. Sau đó, trong phiên họp chi bộ thường kỳ vào tháng 2-1982, chi ủy đã mang vấn đề của tôi ra kiểm điểm, nội dung: đồng chí Nguyễn Nhật Ánh tuy là một đồng chí tốt, nhưng đồng chí có người cha trướcđây làm việc cho chế độ cũ với mức độ như thế thì đứng về mặt lập trường giai cấp, một đảng viên không thể chung sống với một gia đình như vậy… Đồng thời, chi bộ cũng kiểm điểm tôi về việc trước khi tìm hiểu đồng chí Nguyễn Nhật Ánh, tôi đã không xin ý kiến trước, để bây giờ đặt tổ chức vào một việc đã rồi”.

Lá đơn của Trần thị Tiếng Thu viết tiếp: “Trong phiên họp tháng 2 và phiên họp tháng 6 vừa qua, chi bộ đã đặt tôi vào hoàn cảnh phải chọn lựa: một là Đảng, hai là tôi sẽ tiếp tục xây dựng gia đình với đồng chí Nguyễn Nhật Ánh. Tôi đã khẳng định là tôi sẽ tiếp tục xây dựng gia đình với đồng chí Nguyễn Nhật Ánh, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi đã chọn lựa, tôi không bao giờ có ý định rời bỏ Đảng”.

Quyết tâm của đôi lứa yêu nhau đã không dễ dàng để thành hiện thực. Cho dù là công dân, hai người có quyền đăng ký kết hôn, nhưng vì Trần Thị Tiếng Thu đang là người của lực lượng Thanh niên Xung phong, chính quyền địa phương chỉ cho phép đăng ký khi có xác nhận của lực lượng nơi chị đang đăng ký hộ khẩu tập thể. Trong khi đó, Phòng Tổ chức Lực lượng không chịu xác nhận thường trú một khi không có chấp thuận của Đảng ủy.

Tháng 10-1983, Trần Thị Tiếng Thu đành phải thực hiện quyền công dân của mình bằng cách: chị viết một lá đơn xin “xác nhận hộ khẩu” để “bổ túc hồ sơ xin đăng ký xe”. Phòng Tổ Chức đã xác nhận cho chị. Nhưng, chữ “xe” đã được haingười yêu nhau âm mưu viết sao để sau khi ký về sửa thành chữ “kết” và “bổ túc” thêm chữ “hôn”, đăng ký xe thành “đăng ký kết hôn”. Sau đám cưới, ngày 30-5- 1984, Trần Thị Tiếng Thu đã nhận được quyết định kỷ luật “cảnh cáo”. Căn cứ để Phó Bí thư Thành ủy Phan Minh Tánh ký quyết định này là: “Xét thấy đồng chí Thu còn non kém về quan điểm lập trường và thiếu ý thức tổ chức kỷ luật trong việc xây dựng gia đình”.

Không chỉ vượt qua những định kiến của chế độ mới dũng cảm bảo vệ tình yêu lứa đôi, rất nhiều người trong số họ đã chiến đấu để bảo vệ giang sơn vì tình yêu tổ quốc. Hàng ngàn thanh niên xung phong đã ra chiến trường khi Pol Pot giết thường dân ngoài biên giới. Theo nhà báo Trần Ngọc Châu, năm 1977-1978, khi chiến tranh Biên giới Tây Nam nổ ra, rất nhiều người xung phong ra tiền tuyến nhưng không phải ai cũng được chọn. Ngày 14-6-1978, 500 nam nữ thanh niên xung phong thuộc Liên đội 5 được điều ra biên giới, “phối thuộc” Sư đoàn 7, Quân đoàn IV, với nhiệm vụ cáng thương, tải đạn, làm đường, chống lầy, bốc xếp đạn dược, khâm liệm và chôn cất liệt sĩ. Đoạn đường mà Liên đội 5 đảm trách chỉ dài hơn 10km, nhưng lún, lầy rất nặng; thanh niên xung phong phải thường xuyên san lấp, chèn cây nhiều lớp, công việc vô cùng gian khổ.

Chiều 21-7-1978, Trung đội 3 được giao bám sát bộ đội đang vận động tấn công Khmer Đỏ. Trung đội có một tiểu đội nữ do Đại đội Trưởng Ngô Đức Minh trực tiếp chỉ huy, di chuyển lên chốt chặn gần ngã ba Koky Som. Rạng hôm sau, ngày 22-7- 1978, một tiểu đoàn Khmer Đỏ, trên đường luồn sâu vào phía sau mặt trận, đã chạm trán Trung đội 3. Trận đánh – giữa một bên là những tên lính Khmer Đỏ hung hãn với một bên là những thanh niên chưa có một ngày được huấn luyện chiến đấu và vũ khí thì chỉ có vài người được trang bị – đã biến thành một cuộc thảm sát. Khi lực lượng Sư đoàn 7 kịp đến bao vây và tấn công, tiêu diệt toàn bộ chín mươi sáu tên Pol Pot, thì bọn chúng đã kịp giết chết hai mươi bốn người: Xác Đại đội trưởng Ngô Đức Minh bị đốt; bảy cô gái thanh niên xung phong bị hãm hiếp trước khi bịgiết giã man. Chỉ có hai người – Nguyễn Thị Lý và Nguyễn Văn Tuấn – là sống sót, nhờ được xác của đồng đội đè che, sau khi cả hai đều bị thương rất nặng.

Tin hai mươi bốn đồng đội bị thảm sát được truyền đi trong toàn lực lượng. Cái chết của họ không làm các nam nữ thanh niên xung phong run sợ cho dù thanh niên xung phong phục vụ chiến trường khi ấy chưa được trang bị súng đạn hay bất cứ vũ khí gì để tự vệ. Họ ở phía sau. Nếu bộ đội phía trước bị bật chốt hay bị tiêu diệt thì số phận tiếp theo là chính họ. Khi nghe tin Trung đội 3 của Liên đội 3 bị thảm sát, nhà thơ Đỗ Trung Quân – khi ấy đã rời Tòa soạn báo Tuyến Đầu, nhậnnhiệm vụ ở một đơn vị Thanh niên xung phong phối thuộc Trung đoàn Gia Định – đã viết “Những bông hoa trên tuyến lửa”. Nhận được bài thơ, từ tòa soạn báo Tuyến Đầu, Cao Vũ Huy Miên viết thư tay gửi theo xe quân sự gửi Quân: “Lực lượng triệu tập, có hội diễn văn nghệ thanh niên xung phong. Ông xin phép rồi tìm xe bộ đội về thẳng Sài Gòn. Mong gặp ở Nhà Văn Hóa Thanh Niên”.

Từ Campuchia, lúc này được gọi là “Chiến trường K”, Đỗ Trung Quân theo xe bộ đội, về tới Thành phố sau ba ngày đường dò dẫm qua những Phum Sóc không còn bóng người và thỉnh thoảng lại gặp mìn gài lại của tàn quân Pol Pot. Sau gần hai năm nhìn lại những ánh đèn Thành phố, mắt cay cay, Quân chen qua đám đông, bước vào Nhà Văn Hóa Thanh Niên. Anh nhìn thấy ở đó những “chiến sỹ văn công Tổng đội”: Ánh Hồng, Ánh Thu, Trương Tam Sa, Hoàng Tuấn, Kiều Nga, Kiều Giang… Cao Vũ Huy Miên đón Quân sau cánh gà: “Tôi tưởng ông không về kịp…”.

Quân bước ra sân khấu, đặt chiếc ba lô xuống chân. Bộ đồng phục đã bị bụi đường nhuộn màu nâu đỏ. Đỗ Trung Quân năm ấy, một gã trẻ tuổi đeo kính cận, tóc tai bờm xờm, chỉ kịp giới thiệu mình bằng bài thơ vừa viết:

Ở giữa rừng đâu có gương soi

Làm sao em thấy được vết bầm trên má

huyến tải thương về mấy lần trượt ngã

Vì mùa mưa nào đã chịu dứt ở đây

Anh bộ đội thương binh vừa tỉnh lại sáng nay

Đã hỏi thăm em, người cáng thương đêm trước

Cô ấy ngã mấy lần tôi đếm được

Mà sao không khóc mới lạ lùng

Chắc anh hiểu rồi em ở tấm lòng

Nước mắt chỉ dành cho người ngã xuống

Nên dù té đau gai rừng tê chân buốt

Đâu để vết thương anh rỉ máu hai lần

Em là người thanh niên xung phong không-có-súng-chỉ-có-đôi-vai-cáng- thương-tải-đạn…

Theo ông Võ Viết Thanh, nếu ông Võ Văn Kiệt không kiên quyết thì lực lượng thanh niên xung phong đã không được trang bị súng. Sau những cái chết đau đớn của các đội viên, nhiều vị lãnh đạo vẫn sợ: “Giao vũ khí cho chúng à?”. Ông Võ Viết Thanh kể, khi đưa Lực lượng lên rừng, nhiều người vẫn lo “cái đội quân xô bồ, ô hợp ấy mà tan ra thì hậu quả không biết thế nào”. Tổng cộng đã có 5.000 lượt thanh niên xung phong tham gia phục vụ Chiến trường đánh Khmer Đỏ.

Ngoài ông Bảy Thanh, không phải nhà “lãnh đạo lực lượng” có “cầm cờ, đứng tên” nào cũng “có một ngày đi với anh em” để biết sự tàn bạo của quân Pol Pot. Khi được trang bị vũ khí, những thanh niên phục vụ chiến trường này đã chiến đấu như những đơn vị quân sự thật sự. Chính những đội viên thanh niên xung phong xuất thân từ những người lính chế độ cũ, từng được coi là “Ngụy”, giờ ấy đã tổ chức huấn luyện cấp tốc cho đồng đội về chiến thuật, về cách sử dụng vũ khí để đánh lại kẻ thù. Nhiều người trong số họ đã hy sinh anh dũng. Ông Trần Ngọc Châu cho biết: “Công việc làm đường, tải thương và tiếp đạn đôi khi còn nguy hiểm hơn những người chiến đấu. Trung đội tôi quân số 50 thanh niên xung phong, có 30 người chết”.

Năm 1982, khi tờ Tuyến Đầu của Thanh niên Xung phong bị lực lượng giải tán, Nguyễn Nhật Ánh, Đỗ Trung Quân, Trần Ngọc Châu, Nguyễn Đông Thức… trở về. Bộ đồng phục xanh lá cây đã làm họ thay đổi rất nhiều sau khi thấm bằng mồ hôi vàcả máu. Thanh niên xung phong là tấm giấy thông hành đem lại ít nhiều kiêu hãnh cho những người có nó. Chế độ mới đã coi những tấm giấy ấy như một chứng chỉ hoàn thành cuộc sát hạch vinh quang. Hơn sáu vạn giáo sư, bác sỹ, sinh viên, thanh niên lẽ ra có thể dành những năm đẹp nhất của cuộc đời mình để cống hiến cho xã hội những gì mà họ thành thạo nhất. Vậy mà, để được chế độ thừa nhận, họ đã phải xuống biển, lên rừng, bàn tay chai sần đi và kiến thức chuyên môn thì mai một.

“Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ lở”

Nhiều thanh niên “ngụy” đã bước qua cánh cửa Cách mạng thanh niên xung phong rồi được trọng dụng hơn trong chế độ. “Nước sông công lính” đã giúp khai hoang phục hóa hàng vạn hecta đất trong các vùng chiến tranh; đào được hàng trăm kilomet kênh mương. Nhưng, không phải con kênh nào cũng thực sự có ý nghĩa về thủy lợi; không phải cánh rừng nào bị tàn phá cũng để phục vụ quốc kế dân sinh.

Ngày 3-3-1977, khi nói chuyện tại Đại hội Thanh niên Xung phong Tiên tiến, ôngVõ Văn Kiệt biểu dương: “Trong năm qua các đồng chí đã cất được hàng chục vạn nhà, đào hàng ngàn giếng, đốn và chặt hàng triệu cây, phát hoang hàng trăm mẫu, đã góp công góp sức vào việc hoàn thành trên ba mươi xã trong số tám mươi xã kinh tế mới”. Thế nhưng, đến cuối năm, ngày 12-12-1977, trong lễ ra quân trên “Đại Công trường Thủ công” xây dựng khu kinh tế mới Dương Minh Châu, ông đã cảnh báo họ: “Đất nước còn nghèo, sống hôm nay phải nghĩ tới ngày mai, các em cần bảo nhau hết sức quý trọng… từng tấc đất và mọi tài nguyên của tổ quốc! Phải rèn giữ cho nhau từ bỏ thói quen xả láng, phung phí rất xa lạ với con người mới… Tôi dặn các em chớ thấy cây rừng mà chặt bừa bãi. Cành cây chặt xuống đừng để vương vãi, các em chịu khó thu nhặt lại, dành dụm được ít củi cho thành phố”.

Sau hai năm lên rừng để dọn sạch những “rác rưởi” của chiến tranh, mỗi lần trở về thành phố vẫn thấy “nhan nhản những đám thanh niên tiếp tục sống bám vỉa hè,nhởn nhơ bên lề xã hội, giết thời gian bằng cách lê la tiệm quán, hết đi lượn phố lại tụ năm tụ ba ở những nơi công cộng”, nhiều thanh niên xung phong đã không khỏi nhìn lại những năm tháng đi xa xây dựng chế độ mới của mình. Tại “Lễ mừng 46 năm thành lập Đoàn”, 26-3-1978, ông Võ Văn Kiệt nói: “Nhiều em cũng viết thưcho tôi tỏ ý bất bình… Nhiều bạn trí thức sống lâu năm ở thành phố này cũng nói với chúng tôi: Cảnh đó trước đây nhìn mãi quen mắt, không ai để ý đến nữa, tưởng đời sống thanh niên thành phố vốn nó là như thế. Đến bây giờ không sao coi được. Tôi rất muốn gặp các anh em đó, hỏi các em nghĩ gì về cuộc đời này, nghĩ gì về cuộc đời bản thân của các em”.

Ông Kiệt muốn những người “lê la tiệm quán” ấy phải tự đặt câu hỏi về tương lai của mình. Nhưng các “em thanh niên xung phong” viết thư cho ông Kiệt không chỉ để chất vấn những người “chậm tiến” ấy. Điều khiến họ hy sinh những năm tháng xa người thân, xa đèn điện là để kiến tạo một thành phố mới chứ không phải để thấy rồi những “tàn dư Mỹ Ngụy” lại vẫn cứ quay về. Sáu vạn thanh niên rời Thành phố đi xa, và sửa mình theo hướng mà Cách mạng cho là tích cực. Trong khi đó, bốn triệu thường dân khác vẫn có nhu cầu để sống một đời sống bình thường. Nếu như năm 1975, 1976, những văn nghệ sỹ miền Bắc khi đến Sài Gòn vẫn thích đeo bên hông khẩu K54, thì những năm về sau, họ đã biết uống bia, biết áo phông, quần bò. Theo Đỗ Trung Quân, bài thơ Tạ Lỗi Trường Sơn, ngoài sự dồn nén sau bảy năm “giải phóng”, còn lập tức “bật” ra thành chữ khi có một nhà văn miền Bắc, đến trước mặt anh chỉ đôi dép sa-bô, cái quần bò đang mặc và hỏi: “Ê Quân, thấy bọn này Sài Gòn chưa?”.

Khi ấy, năm 1982, Đỗ Trung Quân viết:

Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót

Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi

Những con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện

Những gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển

Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình

Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát, hy sinh…

Và khi ấy

Thì chính “các anh”

Những người nhân danh Hà Nội

Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới

Chửi đã đời

Chửi hả hê

Chửi vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mình

Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh

Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!

Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc

Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt.

Những bà mẹ làm ra hạt lúa

Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin

Những bà mẹ tự nhận phần mình tối tămđể những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch

Bây giờ

Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”

Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân

Các anhđang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu

Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô

Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio…

Rượu bia và gái

Các anh ngông nghênh tuyên ngôn “khôn & dại”

Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”

Các anh cũng chạy đứt hơi

Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi

Sài Gòn thời quá khứ Sài Gòn 1982 lẽ nào…

Lại bắt đầu ghẻ lở?



Tội nghiệp em

Tội nghiệp anh

Tội nghiệp chúng ta những người thành phố

Những ai ngổn ngang quá khứ của mình

Những ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen”

Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật

Xin ngả nón chào các ngài

“Quan toà trong sạch”

Xin các ngài cứ bình thản ăn chơi

Bình thản đổi thay lốt cũ

Hãy để yên cho hàng me

Sài Gòn

Hồn nhiên xanh muôn thuởđể yên cho xương rồng, gai góc

Chân thật nở hoa

Này đây!

Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa

Nơi một góc (chỉ một góc thôi)

Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở Bây giờ…

Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào “thượng đế”

Khi sống hả hê giữa một thiên đường Ai bây giờ

Sẽ Tạ lỗi

Với Trường Sơn?

Chú thích

321 Từ tháng 8-1975 đổi tên thành đường Điện Biên Phủ.

322 Uaz một thương hiệu xe nổi tiếng của Liên Xô, ra đời từ năm 1941.

323 Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khóa IV.

324 Khu ủy Sài Gòn-Gia Định.

325 Nay là đường Lê Duẩn.

326 Sài Gòn Giải Phóng, 22-1-1976.

327 Tố Hữu, Ta Đi Tới, in trong tập thơ Việt Bắc, xuất bản năm 1954.

328 Hiện định cư ở Orange County, California, Mỹ.

329 Lúc ấy là phó chủ tịch kiêm giám đốc Công an Thành phố.

330 Tin Sáng, 16-9-1975.

331 Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, cuốn I, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Thành phố.

332 Sau đổi tên thành Nhà hát Thành phố.

333 Sài Gòn Giải Phóng, 5-8-1975.

334 Báo cáo kết quả điều tra di dân tự do vào Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Kinh tế, tháng 9-1997, trang 8.

335 Báo cáo kết quả điều tra di dân (trang 5) ghi những người đi kinh tế mới trong khoảng 1989-1995 chủ yếu là tự nguyện.

336 Sài Gòn Giải Phóng, 25-5-1975.

337 Sài Gòn Giải Phóng, 25-5-1975.

338 Sài Gòn Giải Phóng, 25-5-1975.

339 Không chỉ tuần hành thị uy ngoài đường, trong khí thế đó, các thanh niên bảo vệ Văn hoá còn dự định sẽ vào tận từng nhà để truy tìm, dẹp bỏ các văn hoá phẩm xấu. Tuy nhiên, theo ông Dương Đình Thảo, Giám đốc Sở Văn Hóa thông tin, sau chuyến công tác nước ngoài trở về, ông Thảo đã góp ý với ông Võ Văn Kiệt và đặc biệt với Trưởng Ban Tuyên huấn Trần Trọng Tân, để “chiến dịch bài trừ văn hoá” không lan vào các nhà dân.

340 Sài Gòn Giải Phóng, 1-6-1975.

341 Sài Gòn Giải Phóng, 4-6-1975.

342 Ông và gia đình vượt biên năm 1978.

343 Nay là đường Phan Đình Phùng.

344 Về sau, khi cuộc sống khó khăn, chúng được mang ra bán ở chợ sách Đặng Thị Nhu.

345 Theo lời kể của ông Nguyễn Diên Hồng, con trai cụ Nguyễn Đức Phong.

346 Sài Gòn Giải Phóng, 30-10-1975.

347 Sài Gòn Giải Phóng, 25-12-1975.

348 Từ Đông Đức trở về, quần áo mà ông Lê Xuân Nghĩa mang theo cũng là quần loe vì nó đang là “mốt của toàn thế giới”.

Một hôm, ông đang đạp xe giữa đường phố Hà Nội thì bị công an ách lại và ngang nhiên rạch cả hai ống quần từ gấu đến ngang hông. Tức tối, ông Nghĩa về cơ quan là Ủy ban Vật Giá để nhờ giúp phản đối chuyện can thiệp thô bạo. Nhưng, cả lãnh đạo cơ quan và Bí thư Đảng ủy đều cho rằng công an làm thế là đúng. Chủ nhiệm Ủy Ban Vật giá, ông Tô Duy nhận xét: “Cái quần nó loe thì đầu óc nó cũng loe”. Tuy, ít nơi chính thức ban hành những “mệnh lệnh cấm đoán”; nhưng, nếu như các mệnh lệnh thường có giới hạn thì các “phong trào” lại không có điểm dừng, nhất là khi các đoàn viên “hồng vệ binh” được huy động để chống những “kiểu ăn mặc càn quấy” ấy. Nhiều nơi, những người mặc quần loe, để tóc dài đã bị các đoàn viên, có nơi bị công an, giữ lại dùng dao, kéo cắt quần, cắt tóc giữa đường (Theo Đặng Phong, Tư Duy Kinh Tế Việt Nam). Ông Phan Minh Tánh, Bí thư Đoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam kể, khi ra Hà Nội ông thấy, ở cơ quan Trung ương Đoàn cũng có bảng “không tiếp thanh niên mặc quần loe để tóc dài”.

349 Mao không có râu còn đầu Lenin thì không có tóc.

350 Tính đến cuối năm 1974, ở miền Nam Việt Nam có 258.514 xe, gồm: 35.384 xe vận tải nặng; 64.229 xe du lịch; còn các xe máy dầu, xe gắn máy 2-3 bánh thì không tính hết vì chính quyền miền Nam không buộc các xe dưới 49cc phải đăng ký.

Chỉ riêng Sài Gòn năm 1974 đã có 599.215 xe gắn máy, 3.025 xe taxi, 1.270 xích lô máy, 5.348 xích lô đạp. Tổng số xe công của các cơ quan và các đoàn ngoại giao có trên toàn miền Nam đến năm 1974 là 973.624 xe.

351 Sài Gòn Giải Phóng, 17-9-1975.

352 Sài Gòn Giải Phóng, 7-10-1976.

353 “Ngày 26-5-1976, trong cơn mưa bão tầm tã, đồng chí Võ Văn Kiệt, phó bí thư Thành ủy Đảng Lao động Việt Nam, chủ tịch Ủy ban nhân dân Cách mạng thành phố Hồ Chí Minh, đã đi xem cơ sở biến chế than quả bàng, nhằm giải quyết tốt vấn đề chất đốt cho nhân dân thành phố. Miền Nam trước kia rất dồi dào than củi. Nhưng từ khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến xâm lược, bằng chính sách khai quang, dùng chất độc hủy hoại cây cối, khiến các rừng đước, rừng vẹt ở rừng Sác, Cà Mau, nơi cung cấp than củi cho nhân dân thành phố bị hủy diệt trên một quy mô rộng lớn, vấn đề chất đốt trở thành mối bận tâm lớn của nhân dân thành phố. Đồng bào phải dùng điện, dầu hôi hoặc hơi đốt để nấu ăn, như thế rất tốn kém. Hoặc phải dùng than hầm, củi của các rừng miền đông cũng rất đắt, lại thiếu vệ sinh. Đồng thời, cũng phí phạm rất nhiều cây gỗ, là nguồn tài nguyên quý báu của đất nước. Để giải quyết tình trạng trên, Đảng bộ và Ủy ban Thành phố đã chỉ thị cho các ngành chuyên môn phải khẩn trương nghiên cứu, tìm biện pháp giải quyết. Và lần đầu tiên, than quả bàng được phổ biến cho nhân dân dùng và được hoan nghinh như một loại chất đốt tiện lợi và tốt. Than quả bàng làm bằng than đá từ miền Bắc gởi vào, trộn với đất, rồi dùng máy ép lại cho chặt và phơi (hoặc sấy) khô. Trước hết, giá thành rất rẻ, chỉ bẳng từ 1 phần tư đến 1 phần ba giá than củi trên thị trường. Một gia đình 5 người ăn, nấu 2 bữa cơm và 3 món thức ăn chỉ tốn mỗi ngày khoảng 1kg than quả bàng, trị giá độ 7 xu (tức 35 đồng tiền cũ)” (Sài Gòn Giải Phóng, 28-5-1976).

354 Sài Gòn Giải Phóng, 7-10-1976.

355 “Người xin đi đem giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và thẻ căn cước đến công an phường, xã; Làm một đơn trình bày lý do xin đi (mẫu đơn đã in sẵn xin tại văn phòng công an phường, xã); Làm một bản tự khai (mẫu in sẵn tại văn phòng công an phường, xã); Công an phường, xã xác nhận đơn và tờ khai chuyển lên công an quận, huyện xét cấp. Thời gian xét cấp chậm nhất là ba ngày”. Đi các vùng biên giới, hải đảo, trên biển: “Người xin đi phải đem giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và thẻ căn cước đến công an phường, xã; Làm một đơn trình bày lí do xin đi (mẫu đơn in sẵn tại văn phòng công an phường, xã); Công an phường, xã xác nhận đơn và bản tự khai chuyển lên công an quận, huyện và chuyển lên Sở Công an thành phố xét cấp. Thời gian xét cấp sẽ được giải quyết trong vòng ba ngày”. Đi các tỉnh phía Bắc: “Người đi đem giấy chứng nhận nhân khẩu thường trú và thẻ căn cước đến Công an phường, xã; Làm một đơn trình bày lí do xin đi; Làm một bản tự khai (mẫu in sẵn tại văn phòng công an phường, xã); Công an phường, xã xác nhận đơn và bản tự khai chuyển lên công an quận, huyện xét duyệt cấp; Riêng đối với cán bộ, công nhân viên nhà nước chỉ cần có giấy phép và giấy giới thiệu của cơ quan (không phải làm đơn, không phải làm bản tự khai, đem tới Sở Công an thành phố sẽ được xép cấp)” (Sài Gòn Giải Phóng, 21-1-1977).

356 Tuổi Trẻ, 3-2-1976.

357 Trần Bạch Đằng nói: “Chúng ta quan niệm đẹp từ bản chất. Đó là luân lý dân tộc và đó cũng là quan điểm khoa học.

Tuyệt đại đa số thanh niên chúng ta hiểu cái đẹp trong tư thế chiến đấu, trong động tác xung phong đánh giặc dũng cảm, trong tư thế đĩnh đạc trước hiểm nguy và trước mặt kẻ thù. Người ta có thể dựng tượng một thanh niên cắp lê phóng vào giặc Mỹ hoặc một thanh niên ưỡn ngực trước dùi cui của bọn cảnh sát ngụy nhưng không một nghệ sĩ nặn tượng nào hứng thú về một anh thanh niên tóc xấp xỏa ngang vai, quần áo nửa xanh nửa đỏ in đầy chữ quảng cáo pepsi cola, lái honda lượn nghinh ngang trên đường phố...”. Ông Trần Bạch Đằng kết luận: “Luân lý của chế độ cũ nhồi nắn cho chúng ta cái ý thức làm ít hưởng nhiều, sự khôn ngoan là biết cách không làm gì hết mà vẫn sống phè phỡn, học hành cốt chọn một nghề gì ít mất sức nhất mà hưởng lợi nhiều nhất. Luân lý phản động ấy đã tạo cho một số thanh niên ghét nắng, kỵ mưa, mù sương không ưa… Giữ cái mịn màng của làn da hơn là giữ độc lập, tự do của dân tộc và phẩm giá, tiết trinh của chính bản thân” (Trần Bạch Đằng, luận về cái đẹp, lược ghi, đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 7-5-1976).

358 Theo ông Võ Ngọc An, người phụ trách thời kỳ đầu của báo Tuổi Trẻ, hầu hết những bài báo “đánh tư sản mại bản”, dạy dỗ “Ngụy quân, Ngụy quyền” mà các báo đăng đều được lấy từ những tài liệu do Ban Tuyên huấn soạn sẵn và cung cấp.

Ban Tuyên huấn Miền đến năm 1976 vẫn còn hoạt động, Trưởng Ban là ông Nguyễn Văn Linh và Phó Ban là ông Trần Bạch Đằng.

359 Xem Nhật ký Lý Mỹ, chương III - Đánh tư sản.

360 Theo Kim Hạnh, nguyên cán bộ Hội, tổng biên tập Tuổi Trẻ (1981-1991).

361 Theo ca sỹ Khánh Ly.

362 Dương Đình Thảo, trả lời phỏng vấn tác giả.

363 Bác sỹ Vũ Quần Phương được đào tạo trên miền Bắc, nhưng ông không phải là đảng viên vì có một người chú ruột di cư vào Nam.

364 Nguyên văn "the road to hell is paved with good intentions", bắt nguồn từ câu viết nổi tiếng L'enfer est plein de bonnes volontés et désirs của Thánh Bernard xứ Clairvaux 365 Trao đổi với tác giả qua email.

366 Tên thật của nhà thơ Thận Nhiên.

367 Mãi tới năm 2009 Đỗ Trung Quân mới công bố bài thơ này trên blog.

368 Chỉ thị 222 ngày 17-6-1975 của Ban Bí thư.

369 Trong Chỉ thị 222, Tố Hữu viết: “Trước hết, chúng ta cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc rằng thầy giáo và học sinh ở các trường đại học và chuyên nghiệp ở miền Nam là những người con của dân tộc Việt Nam, là nạn nhân của một nền giáo dục nô dịch và phản động của Mỹ và tay sai, chúng ta phải có trách nhiệm giáo dục đầy đủ để họ nhanh chóng trở thành những người công dân trí thức yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội”.

370 Ông Phan Lạc Phúc viết: “Khi tôi đi cải tạo con gái út tôi mới có năm tuổi. Khi tôi về nó đã mười lăm tuổi bắt đầu thiếu nữ. Các chị nó “vượt biên” hết cả chỉ còn nó ở lại với “mẹ cháu” đợi tôi. Khi tôi về, nó theo tôi đi chơi tha thẩn. Ở Hóc Môn nó không có bao nhiêu bạn. Nó theo tôi lên Sài Gòn chơi với Tr. T. con gái Thanh Tâm Tuyền, hay “đi chợ” với chị Ch. con gái bác Hà Thượng Nhân. Thôi thì bố chơi với bố, con chơi với con cũng là phải đạo. Chưa được gặp nhưng con tôi nó muốn gần chị G., con gái đầu của Tô Thùy Yên. G. học thật giỏi. Trong một xã hội Xã hội Chủ nghĩa (không có giai cấp) nhưng khi thi vào đại học có 15 thứ hạng. Ưu tiên hạng 1,2,3 thuộc gia đình cách mạng hay “chính sách” thì, thi 3 bài từ 7 điểm trở lên đã được “chiếu cố” vô Đại học rồi. Con gái “ngụy quân” như chúng tôi đứng hạng thứ 14 áp chót (hạng chót là gia đình phản động, phản cách mạng). Khi bố đi tù cải tạo về rùi thì lại lên được một hạng, hạng 13. Con gái ngụy quân muốn vô Đại học phải đạt 21 điểm, gấp 3 số điểm gia đình chính sách thì mới vô đại học được” (Phan Lạc Phúc, Bạn Bè Gần Xa, Nhà Xuất bản Văn Nghệ, 2002, tr 420-421).

371 Nhật ký Nguyễn Mạnh Huy.

372 Thư bạn đọc Nguyễn Kỳ Tâm viết: “Khi giải phóng, tôi vừa 17 tuổi. Trong cái nô nức, hồ hởi của những người chung quanh, tôi cũng thấy lòng mình rộn lên bao niềm tự hào, hãnh diện. Tôi trở về Sài Gòn tiếp tục học để thi vào đại học. Tôi tham gia những hoạt động thanh niên, và chính nơi đây, trong những buổi sinh hoạt, qua những câu chuyện, sách báo... tôi dần dần thấy ra vấn đề lý lịch của mình. Rồi tôi rớt đại học. Tôi xin vào làm tại một số cơ quan nhà nước, nhưng chờ mãi cũng chưa thấy nơi nào trả lời. Gần hai năm rồi tôi vẫn cứ là cảm tình Đoàn, và nhiều sự việc khác cứ làm tôi suy nghĩ...

Tuổi Trẻ ơi, phải chăng tương lai của chúng tôi coi như chấm dứt, xã hội mới sẽ không có chỗ đứng nào cho những người như chúng tôi? Có phải số phận đen đủi với cái lý lịch quái ác sẽ đưa tôi ra ngoài rìa xã hội? Mà tôi có ao ước gì cao xa đâu.

Chỉ muốn sống và công tác bình thường mà không bị nghi kỵ, thành kiến”.

373 Năm 1978, Luật sư Trần Văn Tuyên, một trí thức nổi tiếng, có cô con gái thi đậu đại học nhưng không được học. Các trí thức Sài Gòn phản ứng nhưng không ai dám giải quyết vì đấy là nguyên tắc. Nhờ ông Kiệt can thiệp, con gái của Luật sư Trần Văn Tuyên, không những được vào đại học mà còn được đi du học tại Liên Xô.

374 Ông Võ Văn Kiệt nhấn mạnh“hậu quả của chính sách độc hại nhất của nước Mỹ”, rồi phê phán: “Một tâm lý xã hội tiêu thụ cực đoan đã giết chết thói quen và tinh thần yêu lao động cố hữu của dân tộc. Trong mọi vết thương của chiến tranh, chính vết thương tinh thần đó là khó chữa nhất". Ông kêu gọi: “Trong những năm chiến đấu,… có bạn trẻ nào không xúc động với câu hát: ‘Nếu là người tôi sẽ chết cho quê hương?’ Quê hương hôm nay không đòi hỏi mỗi người tuổi trẻ phải chết. Đất nước vĩnh viễn độc lập, tự do rồi. Quê hương đòi hỏi anh phải sống và sống cho ra sống. Câu hát đó ta nên sửa lại là: ‘Nếu là người tôi phải sống cho quê hương’. Sống là chia sẻ ngọt bùi với nhân dân. Sống không phải ăn bám mà là lao động”.

375 Về sau Trần Ngọc Châu trở thành Tổng thư ký tòa soạn báo Tuổi Trẻ, Phó TBT Thời báo Kinh Tế Sài Gòn.

376 Nhà văn viết chuyện thiếu nhi.

377 Cha Nguyễn Nhật Ánh phải cải tạo từ 1975-1982.

378Trong bài phát biểu này, ông Võ Văn Kiệt đã nêu những ví dụ: “Ở một đại đội có hai đồng chí gàn bướng nhất đơn vị, không biết nội quy kỷ luật là gì, đánh lộn gây gỗ là thường xuyên, thì nay đã là cá nhân xuất sắc của Đại hội, một đồng chí là tiểu đội trưởng, một đồng chí là tiểu đội phó của đơn vị. Có đồng chí trước đây xâm tay xâm mình, đã lấy thanh sắt hoặc đũa nướng xóa đi những vết xâm đó, thà rằng mang thẹo còn hơn”.

379 Theo phát biểu của ông Võ Văn Kiệt ngày 3-3-1977: “Có người xuất thân từ công nhân, ở đợ, văn hóa chưa làm được toán trừ thì nay đã là đại đội trưởng, liên đội phó xuất sắc, giỏi về công tác chính trị và cả về quản lý, kỹ thuật. Có người trước đây chuyên buôn bán chợ trời, thì nay trở thành cán bộ, giáo viên văn hóa. Có đại đội với ngót 40% thanh niên là binh lính thuộc chế độ cũ và lưu manh, xì ke ma túy, sau sáu tháng phấn đấu đã bình, tuyển được gần tám mươi cá nhân tiên tiến, xuất sắc và biểu dương. Nhiều anh em trước đây không biết chữ, nay vào thanh niên xung phong đã biết chữ”.

380 Cách nói chỉ những người không thuộc sự quản lý của một cơ quan nhà nước hoặc tổ chức chính trị nào.

381 Tiểu thuyết Trăm Sông Về Biển của Nguyễn Đông Thức là dựa trên câu chuyện có thật này.




Chương 8: Thống Nhất




Con gái ông Lê Duẩn, bà Lê Thị Muội, viết: “Gần trưa [30-4] tôi hay tin là ta đã chiếm Dinh Độc Lập… Tôi hấp tấp ra khỏi Viện Di truyền, phóng xe máy về nhà vàlao thẳng vào phòng ba tôi. Ở đấy, một mình ba tôi đang ngồi lặng lẽ… Người ngước mắt cười với tôi, rồi nước mắt bỗng trào ra… Đột nhiên, tôi thấy thời gian nhưngưng lại và ánh sáng trong căn phòng cũng không còn là thứ ánh sáng thông thường của trời đất nữa”382. Nếu như ngày 19-1-1974, Quần đảo Hoàng Sa không bị Trung Quốc chiếm đi, thì Việt Nam dưới thời ông Lê Duẩn đã bao gồm những gì mà Hoàng đế Gia Long mở mang và thâu tóm được. Thống nhất giang sơn đã khó nhưng còn khó hơn khi thống nhất lòng người. Nếu “thời gian ngưng lại” ở thời điểm 30-4-1975, lịch sử chắc chắn sẽ có một cách nhìn khác về vai trò Lê Duẩn.







Nước Việt Nam là một

Việc ông Lê Duẩn phải chờ ở Đà Nẵng cho tới ngày 9-5-1975 mới vào được Sài Gòn để chờ “Trung ương Cục chuẩn bị”, theo ông Trần Quỳnh, khi ấy là trợ lý Lê Duẩn, “đã làm cho anh Ba thoáng có sự lo lắng”.

Cho dù chiến thắng bắt đầu bằng những mệnh lệnh phát đi từ “Tổng Hành dinh”, nhưng đoàn quân tiến về Sài Gòn trong ngày 30-4-1975 còn mang theo cả Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam. Chấm dứt sự tồn tại của một thực thể chính trị được công nhận bởi hai mươi ba quốc gia sao cho trong ấm, ngoài êm, cũng có nhiều điều lo nghĩ.

Theo Tướng Giáp, chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, ngày 20-12-1960, và Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam, ngày 8-6- 1969, là của “anh Ba và Bộ Chính trị”. Tuy nhiên, lá cờ sao vàng nửa đỏ nửa xanh của tổ chức này đã từng làm cho không ít người tin vào những tuyên bố trung lập của “Chính phủ Lâm thời”. Không ít thanh niên, trí thức miền Nam đã hướng về“Mặt trận”, nhất là khi họ bắt đầu bất bình với cung cách quan lại của chế độ Ngô Đình Diệm, khó chịu với sự có mặt của người Mỹ trên đường phố, trong quán bar và sự can thiệp càng ngày càng sâu của Mỹ vào chính trị.

Ảnh hưởng của Mặt trận có vẻ như tăng hơn khi lôi kéo được nhiều trí thức có uy tín bỏ Sài Gòn ra chiến khu, trong đó có cả những trí thức đã từng chống cộng nhưông Lâm Văn Tết383. Đặc biệt, khi Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình do Luật sư Trịnh Đình Thảo làm chủ tịch quyết định ra R thì nhiều người dânmiền Nam bắt đầu nghĩ về Mặt trận như một ngọn cờ chống ngoại xâm thay vì quan tâm tới “bản chất Việt cộng” của tổ chức mà ai cũng biết là được lập ra từ Hà Nội.

Uy tín của những trí thức trong liên minh này đã giúp Mặt trận gây ảnh hưởng đến các tổ chức của “lực lượng thứ ba” như: Phong trào Dân tộc Tự quyết do Luật sư Nguyễn Long làm chủ tịch; Phong trào Bảo vệ Nhân phẩm và Quyền lợi Phụ nữ do bà Ngô Bá Thành đứng đầu; Lực lượng Bảo vệ Văn hóa Dân tộc của Giáo sư Lê Văn Giáp; Ủy ban Vận động đòi cải thiện chế độ lao tù gồm nhiều nhân sĩ, trí thức, linh mục, như Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan; Lực lượng hòa giải dân tộc; Tổ chức nhân dân đòi thi hành Hiệp định Paris của Luật sư Trần Ngọc Liễng.

Tính đến năm 1975, “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam” do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch đã được hai mươi ba nước thuộc “phe xã hội chủ nghĩa” và “thế giới thứ ba” công nhận.

Việc thành lập các cơ quan của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam đều được quyết định bởi Ban Bí thư Đảng Lao động Việt Nam. Các văn bản của cơ quan này nói rõ rằng những tổ chức nhân danh chính phủ lâm thời ấy được lập ra là “do sự cần thiết phải triển khai công tác trên mặt trận đấu tranh ngoại giao và hoạt động tranh thủ quốc tế trong giai đoạn chống Mỹ”. Từ cuối năm 1972, chủ trương hình thành ở miền Nam một “chính phủ ba thành phần” đã gieo không ít hy vọng cho “lực lượng thứ ba”. Bản thân Tướng Dương Văn Minh, trong tuần lễ vận động để thay thế ông Trần Văn Hương, cũng đã tính đến khả năng thành lập một “hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc”.

Nhưng ngay trong ngày 1-5-1975, thái độ của Hà Nội đã được thể hiện dứt khoát trong Điện 601384 do Tố Hữu thay mặt Ban Bí thư gửi cho ông Phạm Hùng, bí thư Trung ương Cục: “Xin báo để các anh biết: theo ý kiến anh Ba, về chính phủ, không còn vấn đề ba thành phần. Cấu tạo chính phủ không thể có bọn tay sai Mỹ, không để cho Mỹ có chỗ dựa và phải làm cho quần chúng thấy rõ sức mạnh, thế mạnh của Cách mạng”. Số phận của Dương Văn Minh, người được coi là lãnh tụ của “lực lượng thứ ba”, cũng được Điện 601 nói rõ: “Những người đã đầu hàng ta như Dương Văn Minh chẳng hạn thì không bắt, nhưng cần có cách quản lý, giám sát”.

Trong chiến tranh, lán của Mặt trận và Chính phủ Lâm thời luôn nằm bên cạnh “bản doanh” của Trung ương Cục, đó là những căn nhà mái lá dựng trên thượng nguồn sông Vàm Cỏ Đông ở vùng Sa Mát, Thiện Ngôn. Theo “Thứ trưởng” Lữ Phương thì “Bộ Văn hóa Thông tin” của ông chỉ gồm vài ba cán bộ đang làm việc trong Tiểu ban Văn nghệ của Ban Tuyên huấn Miền. “Bộ trưởng” Lưu Hữu Phướctrước đó là người phụ trách tiểu ban này. Các quan chức của Chính phủ Lâm thời, kể cả “Chủ tịch” Huỳnh Tấn Phát, cũng chủ yếu giết thời gian bằng cách đánh cờ hoặc chơi bài tiến lên. Mọi phát ngôn của Mặt trận, dù lớn hay nhỏ, đều do Trung ương Cục chuyển sang để các quan chức Mặt trận đọc trước máy ghi âm của Đài Phát thanh Giải phóng385.

Hầu hết những thành viên Mặt trận đều là đảng viên, kể cả những người như bà “Bộ trưởng” Dương Quỳnh Hoa, ông “Bộ trưởng” Trần Bửu Kiếm. Có người vào đảng từ trước rồi được “phân vai”, có người vào rừng rồi mới kết nạp, nhưng khi đã vào R, nhận ra “đại cục” mà mình đang tham gia, hầu hết các thành viên đều để cho Cách mạng sử dụng tên tuổi của mình, đồng thời trực tiếp diễn xuất với tinh thần của người trong cuộc.

Trong thời điểm lôi kéo người dân trước lựa chọn sinh tử giữa Cách mạng và Quốc gia, những trí thức Mặt trận này ít nhiều đã tạo niềm tin vào hòa bình và hòa hợp dân tộc cho những người ở bên kia chiến tuyến. Khi chiến tranh hoàn toàn kết thúc, những trí thức có lương tâm cũng cắn rứt trước số phận của những người đã đi theo những lời tuyên bố đứng tên mình. Nhưng khi vừa về đến Sài Gòn, vai tròcủa họ cũng bắt đầu chấm dứt. Không mấy ai trong số họ có cơ hội để thực hiện với dân chúng những lời đã hứa.

Bản thân mỗi thành viên Mặt trận khi trở lại thành phố cũng đụng chạm không ít vấn đề cá nhân. Phần lớn biệt thự, điền trang, nhà máy của ngay cả các nhân vật lớn như Lâm Văn Tết, Trịnh Đình Thảo đã bị Chính quyền 30-4 “tiếp quản”. Quantrọng hơn là khi cầm lấy ngọn cờ Mặt trận, động cơ của nhiều người là “chống Mỹ” thay vì “ý thức hệ”. Họ không khỏi băn khoăn khi nhận thấy, ngay trong nhữngngày đầu tháng 5-1975, nhiều địa phương bắt đầu thống nhất cung cách điều hành theo miền Bắc. Có tỉnh, chính quyền mới buộc người dân phải xin cấp biển đăng ký cả xe đạp. Có những chi tiết tưởng là vụn vặt nhưng cũng khiến không ít ngườimiền Nam chạnh lòng: dân miền Nam đã quen cầm miếng sườn nung núc thịt nạc, nhưng sau “giải phóng”, mậu dịch viên quốc doanh bán cho họ miếng “sườn” chỉ còn xương xẩu.

Không ai tiến hành một cuộc chiến tranh tiêu tốn hàng triệu sinh linh để kết quả cuối cùng Việt Nam vẫn tồn tại hai quốc gia, nhưng hình ảnh miền Bắc cũng làmcho không ít trí thức kháng chiến miền Nam băn khoăn. Nhiều người đã một vài lần được đưa ra miền Bắc, chứng kiến sự lạc hậu về văn hóa xã hội, sự tàn tạ về kinh tế sau gần hai thập niên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Bên trong, các thành viên Mặt trận cũng có những ý kiến gay gắt. Trong phiên họp nội bộ của Hội nghị Hiệp thương Thống nhất, một số thành viên của Chính phủ Lâm thời đề nghị: đồng ý nguyên tắc là phải thống nhất, nhưng cần có thời gian để hai phần đất nước chia cắt có thời gian hòa hợp với nhau. Nhưng, lúc bấy giờ, tiếng nói và vai trò của Mặt trận có ảnh hưởng vô cùng giới hạn386.

“Bắc hóa”

Không chỉ có các thành viên Mặt trận và Chính phủ Lâm thời, trong những ngày ấy, nhiều cán bộ Trung ương Cục trở về thành phố cũng có cảm giác bơ vơ vì chưa được phân công, trong khi làn sóng cán bộ “chi viện” từ miền Bắc vào lặng lẽ chiếm lĩnh dần các trụ sở và vai trò then chốt. Nhà báo Pháp Jean Lacouture, quan sát tiến trình này ở miền Nam, trong một bài báo đã chơi chữ tiếng Pháp “nordmalisation- Bắc hóa” để thay thế cho chữ “normalisation-bình thường hóa”387.

Bản thân Hà Nội cũng bất ngờ trước các phản ứng ở miền Nam. Ngày 21-4- 1975, với tinh thần chi viện mọi mặt cho nửa nước vừa “giải phóng”, Ban Bí thư gửi Thông tri 316, ra lệnh cho “các ngành ở miền Bắc có trách nhiệm giúp đỡ xây dựng, kiện toàn ngành mình ở miền Nam”. Điện 316 nhấn mạnh: “Vì tình hình khẩn trương nên việc điều động cán bộ cũng phải làm khẩn trương”388. Tuy nhiên, chỉ sau hơn một tháng, ngày 24-5-1975, chính Ban Bí thư đã phải điều chỉnh bằng Điện 733: “Nay căn cứ vào điện của các đồng chí cấp ủy miền Nam, căn cứ vào tình hình mới, chúng tôi định như sau: Kể từ nay việc điều động cán bộ vào miền Nam công tác, nhất thiết phải căn cứ vào yêu cầu của các cấp ủy miền Nam. Đối với những cán bộ, các ban, ngành Trung ương thấy cần thiết điều vào công tác ngắn hạn hay dài hạn ở miền Nam cũng phải hỏi ý kiến Trung ương Cục, hoặc Khu ủy V, hoặc hai tỉnh Trị-Thiên, nếu trong đó đồng ý mới được đưa vào”389.

Ngay từ sau 30-4-1975, theo ông Trần Quốc Hương: không rõ từ đâu, chính sách sắp xếp, sử dụng cán bộ ở Sài Gòn và các tỉnh phía Nam được đúc kết bằng công thức “nhất trụ, nhì khu, tam tù, tứ kết” – có nghĩa là: những cán bộ bám trụ tại chỗ được coi trọng, tin cậy, bố trí vào những chức vụ quan trọng được ưu tiên vào hàng thứ nhất; ưu tiên thứ hai là cán bộ đã chiến đấu ở “khu”, còn gọi là R390, mật danh chỉ Trung ương Cục, khu bộ, xứ bộ; ưu tiên thứ ba được dành cho những cán bộ đã từng bị đi tù được tha theo Hiệp định Paris, hoặc mới được cứu ra; ưu tiên cuối cùng mới dành cho những cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc từ năm 1954 nay trở lại.

Không phải tự nhiên mà ông Lê Duẩn phải nhấn mạnh với các nhà lãnh đạo miền Nam: “Đây là chiến công của cả nước”. Là một người Quảng Trị hoạt động ở Nam Bộ hàng chục năm, ông Lê Duẩn hiểu và rất nhạy cảm trước các vấn đề Nam-Bắc. Trước năm 1975, nhiều cán bộ miền Nam ra thăm miền Bắc đã hết sức ngỡ ngàng khi nhìn thấy cảnh nghèo nàn của “hậu phương lớn”. Một lần, Ban Thống nhất thấy tâm trạng của các đại biểu miền Nam không vui, lãnh đạo ban nói với ông Đậu Ngọc Xuân, thư ký của “anh Ba” Lê Duẩn: “Các đồng chí ấy nói không tốt về miền Bắc, anh về nói anh Ba nên gặp họ”.

Theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Tôi về nói: ‘Có đoàn ra thăm’. Anh Ba gật đầu: ‘Tốt’. Tôi thưa: ‘Kết quả ngược lại, các đồng chí bên Ban Thống nhất nhờ anh gặp làm công tác tư tưởng trước khi họ về’. Anh Ba cho mời họ tới, đoàn gồm hai phụ nữ và ba nam. Anh Ba hỏi: ‘Các đồng chí ra thăm miền Bắc thấy gì?’. Họ thật lòng nói, đi thăm chợ Đồng Xuân mà không thấy hàng hóa gì cả, miền Bắc nghèo quá. Anh Ba nói: ‘Các đồng chí không hiểu. Cái giàu có, cái vĩ đại của Miền Bắc là ở chỗ gia đình nào cũng có bàn thờ, con họ vào Nam là đi vào chỗ chết, thế mà họ vẫn đi, trong khi ở lại thì được đi Liên Xô, Trung Quốc’. Rồi anh Ba hỏi: ‘Ở trong R, các đồng chí có được dạy, ta đánh được Mỹ là nhờ truyền thống 4000 năm của Việt Nam không?

Các đồng chí người ở đâu? Việt Nam! Nếu nhận người Việt Nam, không năm đời, thì mười đời cũng là gốc Bắc. Ra đây là tìm về nòi giống, cội nguồn’. Khi đoàn ra khỏi phòng, ông Lê Duẩn bảo tôi: ‘Chú xuống Viện Lịch sử, tìm một nhà sử học dẫn họ đi đến tận nơi thăm đền thờ Hai Bà Trưng, Bà Triệu’. Khi họ đi về, anh Ba hỏi: ‘Đãhiểu cội nguồn dân tộc chưa?’. Họ nói: ‘Hiểu’. Anh Ba gật đầu: ‘Bây giờ về được rồi’”.

Tháng Giêng năm 1976, theo đề nghị của ông Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân và ông Trần Phương, theo đường bộ, đi xe vào thẳng Sài Gòn. Ông Xuân kể, trước khi đi, Lê Đức Thọ dặn: “Vào Nam muốn làm việc được, người ta kêu uống rượu, phải uống”. Tới Sài Gòn đã là cuối tháng Chạp, ông Lê Duẩn bảo: “Năm nay ta ăn Tết ở đây, chú nào muốn về thì về trước”. Ông Đậu Ngọc Xuân đã ở lại.

Sáng mùng Một Tết Bính Thìn, bà Nguyễn Thị Thập bên Hội Phụ nữ mời tiệc, ông Lê Duẩn tới, mâm cỗ đã “bày la liệt” nhưng ông không ngồi vào bàn. Khi các nữlãnh đạo hội mời, ông nói: “Ăn Tết làm gì, con cái miền Bắc chết ở Trường Sơn chưa ai nói tới đã nói là dân miền Bắc vào đây vơ vét hàng hóa”. Theo ông Đậu NgọcXuân thì trước đó khi nghe bên công an báo cáo “miền Bắc vào đây vơ vét từ cái quạt máy, xe đạp”, ông Lê Duẩn tức lắm nhưng ngay khi đó ông không nói gì.

Bà Bảy Huệ, phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh, đỡ lời: “Thưa anh Ba, đấy chỉ là số ít. Chúng em không bao giờ nói thế”. Ông Lê Duẩn tiếp: “Các chị không nóinhưng nghe ai nói phải vả vào mặt họ chứ. Có những việc ở trong này tôi đã phải giấu đồng bào miền Bắc, ví dụ như chuyện các chị để cho bộ đội chết đói ở Trường Sơn. Xương máu con người ta, người ta không tiếc, giờ mua cái quạt thì các chị kêu ca”. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, nghe ông Lê Duẩn nói đến đó, “các chị Nam Bộ khóc như mưa”.

Trước đó, theo ông Nguyễn Thành Thơ391: Tại Hội nghị cán bộ toàn quốc do ông Lê Duẩn chủ trì, tổ chức sau Hội nghị Trung ương 24 tại trường Công An Thành phố ở Thủ Đức, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh nói: “Nên tiến hành ngay thống nhất lãnh thổ, thống nhất đảng, đoàn thể, mặt trận, nhà nước, quân đội.

Nhưng về kinh tế, đề nghị để nó phát triển như nó có, ta xem ưu khuyết, cái gì phát huy, cái gì bỏ”. Ít lâu sau, tại một hội nghị bàn về văn hóa diễn ra ở Hà Nội, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh nói: “Có một số cán bộ đảng viên không muốn thống nhất để hưởng thụ”. Sau hội nghị đó, ông Nguyễn Thành Thơ cùng ông Trần BạchĐằng tới nhà ông Lê Đức Thọ, trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng. Theo ông Thơ, ông Đằng và ông Thọ cãi nhau đến mức, phải “đứng lên, ngồi xuống, quơ tay nhiều lần”. Ông Lê Đức Thọ nói: “Kinh tế là nền tảng, không thống nhất kinh tế, tất cả vấn đề khác thống nhất không có ý nghĩa”.

Cũng trong thời gian này, tại khu biệt thự của Trung ương ở Hồ Tây, ông Trường Chinh gặp ông Nguyễn Văn Linh và ông Phan Minh Tánh, lúc đó là phó bí thư Thành ủy Sài Gòn-Gia Định. Theo ông Tánh, ông Trường Chinh nói: “Linh ơi, người ta nói cậu không muốn thống nhất đấy”. Đề nghị “thống nhất chính trị trước, thống nhấtkinh tế sau” không phải là sáng kiến của ông Nguyễn Văn Linh. Ngày 13-8-1975, tại Hội nghị Trung ương đầu tiên sau ngày “giải phóng miền Nam”, trong phát biểu của mình, ông Lê Duẩn cho biết là cả ông và ông Trường Chinh đều cho rằng nếu đưa mô hình kinh tế có “một số sai lầm” của miền Bắc “vào miền Nam thì sai lắm”392. Phát biểu của Lê Duẩn trước Trung ương vào ngày 13-8-1975 không phải là một diễn văn được chuẩn bị sẵn. Những ý kiến rời rạc, trùng lắp và mâu thuẫn liên tục trong bài nói chuyện “tay vo” này cho thấy Lê Duẩn có băn khoăn giữa ý thức hệ và thực tiễn miền Nam. Trực giác nhận thấy sự năng động của kinh tế tư nhân đã khiến Lê Duẩn có chút băn khoăn. Nhưng theo ông Trần Việt Phương: “Lê Duẩn chỉ băn khoăn đúng một tuần. Bản thân ông cũng không đủ sức thuyết phục chínhmình, nên khi bị những thế lực bảo thủ cản trở thì ông nhượng bộ. Nhượng bộ không phải họ đúng hơn ông, mà do mô hình của ông chưa hoàn thiện để có thể thay thế cái đang tiến hành ở miền Bắc”. Không đợi đến khi Lê Đức Thọ nói, lẽ raông Nguyễn Văn Linh phải nhớ, ngay trong ngày 13-8-1975, Lê Duẩn đã khẳngđịnh, thống nhất phải đi liền với chủ nghĩa xã hội, bao gồm cả “nội dung chính trị và nội dung kinh tế”393.

Những cuộc đối thoại trên đây giữa Lê Đức Thọ, Trường Chinh, với các thuộc cấp từ miền Nam diễn ra trong khoảng thời gian từ sau Hội nghị Trung ương 24, tháng 8-1975, cho đến trước Hội nghị Hiệp thương Thống nhất. Hội nghị Hiệp thương Thống nhất họp từ 15 đến 21-11-1975 tại Dinh Độc Lập. Trưởng đoàn miền Bắc là Ủy viên Bộ Chính trị Trường Chinh; trưởng đoàn miền Nam cũng là một ủy viên Bộ Chính trị khác, Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng. Để giải quyết sự khác biệt về kinh tế của hai miền, Trường Chinh đã dùng “phép biện chứng” Marx-Lenin phân tích: “Ý thức có tính độc lập tương đối với thực tiễn, cho nên không nhất thiết phải chờ thực tiễn phù hợp mới thống nhất mà có thể dùng ý thức để quyết định rồi thực tiễn bắt đầu điều chỉnh”.

Đúng 12 giờ 10 phút ngày 21-11-1975, hội nghị “Hiệp thương Thống nhất giữa hai miền Nam Bắc” kết thúc. Trong tiếng quân nhạc oai hùng, Chủ tịch Mặt trậnDân tộc Giải phóng Miền Nam Nguyễn Hữu Thọ đã lặp lại lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là một”. Hiệp thương giữa những người đồng chí với nhau chỉ là hình thức. Kể từ ngày 30-4-1975, đất đai, quyền lực đã ở trong tay Đảng Cộng sản Việt Nam. Thống nhất chỉ đồng nghĩa với việc “Bắc hóa” mô hình kinh tế. Cuộc lánh nạn của những người di cư, vì thế, chỉ có giá trị hai mươi năm. Những gì mà họ lo sợ và bỏ chạy hồi năm 1954, sau ngày 30-4-1975 lại ở ngay trước mặt.

Chủ nghĩa xã hội

Nhiều người vẫn trích dẫn nghị quyết Hội nghị Trung ương 24, “trong một thời gian nhất định, ở miền Nam còn nhiều thành phần kinh tế”394, để phê phán cácchiến dịch cải tạo tư sản. Trên thực tế, ngay sau khi các ủy viên Trung ương từ Hội nghị Trung ương 24 trở về, Chiến dịch X-2395 được triển khai gần như ngay lập tức. Khi đưa cả hai miền “tiến lên chủ nghĩa xã hội”, thay vì phải phân tích thực tiễn, các nhà hoạch định chính sách đã tuân theo những nguyên lý của Marx-Lenin – đã thiếtlập “quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa” thì việc “xóa bỏ giai cấp tư sản” là không tránh khỏi396.

Ngày 1-9-1975, tại Dinh Độc Lập, khi Thường Vụ Trung ương Cục làm việc với Thành uỷ Sài Gòn-Gia Định để thông qua kế hoạch “Chiến dịch X2”, các thành viên chủ chốt như Nguyễn Văn Trân, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Linh đều thống nhất coi “giai cấp tư sản là đối tượng của cách mạng”. Chủ trì buổi làm việc, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh thậm chí còn đòi “thanh toán hết giai cấp tư sản” và tỏ ra chưa thỏa mãn với con số “sáu mươi tên tư sản” bị đánh đợt đầu trongChiến dịch X2. Ông Linh yêu cầu nghiên cứu thêm để “nói đánh sáu mươi tên nhưng thực tế sẽ lan ra cả ngàn tên”397.

Sau khi phân tích “hoàn cảnh lịch sử” của Hội nghị Trung ương 24, người thư ký gắn bó nhiều năm nhất với Tổng Bí thư Lê Duẩn, ông Đống Ngạc, nói: “Mình ngồi ở đây, bây giờ, sau khi Liên Xô sụp đổ, mà bàn chuyện cũ, khó lắm”398. Một trợ lý lâu năm khác của Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân399, cho rằng: “Lúc đó, lợi ích giai cấp là mục tiêu quan trọng nhất”400.

Trước khi về làm trợ lý cho Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân là trưởng Khoa Kinh tế học Marx-Lenin của trường Nguyễn Ái Quốc. Ông Xuân nhớ lại: “Cho dù anh Ba đã rất trăn trở trước thực tế phát triển của miền Nam, nhưng khi ấy phải sáng tạo ghê gớm lắm mới có thể thoát ra khỏi sự giáo điều của cả phe cộng sản. Sáng tạo thì phải trên cơ sở có sự trưởng thành về mặt lý luận, mà điều này thì ta chưa đủ. Những nhà lý luận của ta đều học từ Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, trường đảng của chúng ta cũng bắt đầu từ các thầy Trung Quốc”. Một trợ lýkhác của ông Lê Duẩn, Giáo sư Trần Phương401, người mà ông Đống Ngạc gọi là “một nhà kinh tế tự do” cũng phải thừa nhận: “Cho đến trước khi Liên Xô sụp đổ, đầu óc của chúng tôi vẫn bị cầm tù trong sự giáo điều của chủ nghĩa Marx”402.

Rất nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn cho rằng bộ Tư Bản của Marx là giáo khoa kinh tế học. Những người thực sự có được học về Marx một cách bài bản ở Đại học Phương Đông như Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong… thì đều đã bị người Pháp tử hình trước ngày “cướp chính quyền” . Tác giả chính của các chính sách kinh tế áp dụng ở Việt Nam hơn hai thập niên, ông Lê Duẩn, chỉ học hết lớp bốn rồi đi làm nhân viên hỏa xa. Nhiều nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ học Karl Marx qua các bạn tù. Nhiều người phải sau khi nắm quyền mới học với sự giúp đỡ của chính những người giúp việc403. Nhưng cho dù có học thì, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Bộ Tư Bản mênh mông, gần như không lãnh đạo nào đọc hết, nên nếu lấy ‘Tư Bản’ ra mà dọa thì một anh giúp việc có thể điều khiển được một ủy viên Bộ Chính trị”. Ông Đậu Ngọc Xuân kể: “Mấy anh giúp việc ông Trường Chinh (trong thập niên 1960) là rất hay trích dẫn Marx-Lenin. Cái câu “sản xuất nhỏ hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” làm cụ Trường Chinh rất sợ”404. Không chỉ bởi niềm tin giáo điều, tuân thủ Marx còn là vấn đề kỷ luật.

Theo ông Đống Ngạc: “Những lần đi Liên Xô, anh Ba thấy cách quản lý kinh tếcủa Liên Xô rất dễ làm mất đi sự sáng tạo của quần chúng. Nhưng lúc đó Liên Xô thường nghe ngóng xem Việt Nam có đi chệch đường không”. Tháng 11-1957, Hội nghị các Đảng Cộng Sản và Công nhân Thế giới họp lần thứ nhất và tiếp theo đó, tháng 11-1960, đã họp lần thứ hai. Tại đây, “các đảng và các nước chủ nghĩa xã hội anh em” đã ký tuyên bố chung: “Kinh nghiệm của Đảng Cộng Sản Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản có ý nghĩa nguyên tắc đối với toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế”. Tại Hội nghị tháng 11-1960, các đảng cộng sản đã “nhất trí lên án hình thức Nam Tư”, gọi mô hình Nam Tư là “chủ nghĩa cơ hội quốc tế”, là “lý luận của bọn theo chủ nghĩa xét lại hiện đại”.

Ngày 29-5-1958, tức là chỉ sau hơn nửa năm ra Hà Nội, trong một cuộc nói chuyện trước 1.000 cán bộ cao cấp, ông Lê Duẩn đã cực lực đả kích chủ nghĩa xét lại Nam Tư405. Thật khó để đánh giá cuộc nói chuyện được đăng trên báo Nhân Dân này của ông Lê Duẩn là xuất phát từ nhận thức cá nhân hay chỉ để gửi một thông điệp chính trị đến Liên Xô. Lê Duẩn lúc ấy sắp trở thành tổng bí thư của một đảng vệ tinh, và Liên Xô thì rất cứng rắn với những “anh em” không chịu tuân theo “kinh nghiệm” của họ.

Cán bộ tuyên huấn trong các quốc gia cộng sản, đặc biệt là Việt Nam, có thể dựa trên niềm tin khi lặp đi, lặp lại rằng: “Một xã hội tổ chức trên cơ sở của học thuyết Marx-Lenin mở ra những khả năng vô tận để phát triển kinh tế và văn hoá, để đảm bảo cho mọi người một mức sống cao, một đời sống hòa bình và hạnhphúc”. Nhưng những người nắm quyền thì biết rõ sự kiện Liên Xô đưa xe tăng vào nghiến nát cuộc biểu tình ở thủ đô Budapest vào tháng 11-1956 sau khi có những cải cách ở Hungary; biết rõ sự kiện Liên Xô bắt nhà cải cách, Bí thư Thứ nhất Tiệp Khắc Alexander Dubcek vào tháng 8-1968. Đêm 20-8-1968, khi cho xe tăng tiến vào thủ đô Prague, Liên Xô đã giam hãm những mầm mống cải cách trong khối xã hội chủ nghĩa suốt hai thập niên sau đó.

Cũng phải thừa nhận, cuối thập niên 1950, đầu 1960, Liên Xô đã tạo ra nhiều thành tựu: tháng 6-1954, khánh thành nhà máy điện nguyên tử đầu tiên trên thế giới; tháng 10-57, phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên vào vũ trụ; cũng trong năm 1957, thử nghiệm thành công tên lửa vượt đại châu, dùng tên lửa phóng vệ tinh, chụp được ảnh phía sau mặt trăng. Những thành tựu này được mô tả là đã làm cho “các nước trong phe xã hội chủ nghĩa nức lòng, các nước Phương Tây hốt hoảng”. Tháng 11-1960, Liên Xô đưa người bay vào vũ trụ. Sự tuyên truyền về hệ thống xã hội chủ nghĩa mạnh mẽ đến mức có lúc, ở Việt Nam, ông Việt Phương, trợ lý Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đã phải làm thơ than: “Trăng Trung Hoa tròn hơn trăng nước Mỹ / Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thuỵ Sỹ”.

“Con đường của Bác”

Ông Đống Ngạc cho rằng, sẽ là không công bằng nếu nghĩ tác giả các chính sách cải tạo nóng vội đi lên chủ nghĩa xã hội là của Lê Duẩn. Theo ông Đống Ngạc: “Chính Bác Hồ là người ký luật hợp tác xã và chính sách cải tạo tư sản mà sau năm 1975 ta áp dụng”.

Khi “cướp được chính quyền”, trong Bản Tuyên ngôn Độc Lập đọc tại Ba Đình vào ngày 2-9-1945, thay vì trích dẫn Marx hay Lenin, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng những “lời bất hủ” mà ông nói rõ là lấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ nhữngquyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Phần trích dẫn thứ hai của Hồ Chí Minh trong bản tuyên ngôn cũng từ cuộc cách mạng của giai cấp tư sản: Cách mạng Pháp năm 1791.

Cho dù từng sống ở Liên Xô trong thập niên 1930, thời kỳ huy hoàng nhất của chế độ cộng sản, Hiến Pháp năm 1946 – bản hiến pháp được coi là của Hồ Chí Minh – đã không hề có bóng dáng của nhà nước Xô Viết. Thật khó để biết đâu là sách lược, đâu là quan điểm chính trị của ông. Sau những nỗ lực tìm kiếm sự công nhận của phương Tây bất thành, năm 1948, cho dù vẫn bị Stalin khước từ406, Hồ Chí Minh chính thức xác nhận mình là một người cộng sản407. Nhưng chiến thắng của Mao Trạch Đông ở Trung Quốc vào tháng 10-1949 mới là sự kiện ảnh hưởng mang tính bước ngoặt đối với những lựa chọn sau đó của Hồ Chí Minh.

Cho dù bị các đảng viên của mình gọi là một người “quốc tế giả danh”, chính Mao Trạch Đông đã đích thân bào chữa cho Hồ Chí Minh. Trong một bức điện gửi Lưu Thiếu Kỳ ngày 27-1-1950, Mao Trạch Đông cho rằng: “Còn quá sớm để coi việc Hồ Chí Minh ngụy trang đảng của ông ấy và tuyên bố trung lập đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là sai phạm mang tính nguyên tắc, bởi cuộc đấu tranh của người Việt Nam không hề chịu hậu quả trước hai quyết định đó”. Năm 1949, cũng chính Mao Trạch Đông giải thích với Stalin: “Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa quốc tế. Việc ông ta giải tán đảng là một quyết định tình thế để cứu cuộc đấu tranh chống Pháp”. Chính Mao đã thuyết phục Stalin công nhận và thiết lập quan hệ về đảng và nhà nước với Hồ Chí Minh, người trước đó đã bị ông ta ghẻ lạnh408. Quan hệ với Mao Trạch Đông và Stalin càng nồng ấm thì chuyên chính vô sản càng nhanh chóng được áp dụng ở Việt Nam.

Ông Hoàng Tùng, chánh Văn phòng Trung ương, kể: Năm 1950, khi tới Điện Kremlin, Hồ Chí Minh vẫn bị Stalin quy kết: “Không cải cách ruộng đất, không dựa vào nông dân, lại đoàn kết với địa chủ. Dân tộc chủ nghĩa thế này thì còn gì là đảng cộng sản nữa”. Stalin đã chỉ hai chiếc ghế như là biểu tượng, một của quốc tế cộng sản; một là dân tộc chủ nghĩa, rồi hỏi Hồ Chí Minh: “Đồng chí chọn ghế nào?”. Theo ông Hoàng Tùng thì khi ấy Hồ Chí Minh đã “đứng”.

Cho dù Stalin và Mao tiếp tục thúc ép, tại Đại hội II, năm 1951, thay vì chủ trương cải cách ruộng đất, Tổng Bí thư Trường Chinh đã đưa ra “thuyết ba giaiđoạn” theo đó, trước hết phải giảm tô, giảm tức rồi mới đi đến cải cách ruộng đất. Theo ông Hoàng Tùng: “Thuyết ba giai đoạn của Trường Chinh đưa ra ở Đại hội II là có ý kiến của Bác, nhưng Trường Chinh phân tích rất hay. Năm 1946, họp Xứ ủy tôi đã được nghe ông nói rằng, những cải cách nhỏ đều có ý nghĩa cách mạng, nhiều cải cách nhỏ cộng lại thành cuộc cách mạng lớn”. Nhưng, sau đại hội, theo ôngHoàng Tùng: “Mao và Stalin đã gọi Bác sang, nhất định bắt phải làm. Mao Trạch Đông nói thẳng: nếu các đồng chí không cải cách ruộng đất, chúng tôi không viện trợ nữa”. Để có viện trợ từ Liên Xô và Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã chấp nhận “cuộc đấu tranh giai cấp ở một nước Phương Đông”, điều mà ông đã từng cho là không thích hợp409.

Thực ra, thuyết “ba giai đoạn” của Trường Chinh cũng đã thể hiện bước đi của một nhà nước công nông. Sau khi Chính phủ Đoàn kết Dân tộc tan vỡ, nhất là thờikỳ Chính phủ phải rời Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc, các chính sách mang màu sắc giai cấp đã bắt đầu được hình thành410. Từ sau năm 1951, một số cán bộ, trong đó có Ủy viên Trung ương Hồ Viết Thắng, được Đảng Lao Động Việt Nam đưa sang Trung Quốc học tập cách cải cách ruộng đất rồi về nước phát động giảm tô, giảm tức. Năm 1952, việc đấu tố địa chủ được bắt đầu với sáu xã thí điểm ở huyện Đại Từ, Thái Nguyên rồi sau đó chính thức thực hiện vào giữa năm 1953.

Tại Hội nghị Trung ương 5, họp từ ngày 14 đến 23-11-1953, Hồ Chí Minh quán triệt: “Vấn đề mấu chốt là cải cách ruộng đất”. Mở đầu bài phát biểu trước Hội nghị này, Hồ Chí Minh cho rằng: “Phe ta ngày càng mạnh, phe địch ngày càng yếu. Liên Xô, thành trì cách mạng thế giới, đang tiến mạnh từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa cộng sản… Với sự giúp đỡ tận tâm của Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu đang ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trung Quốc đã thắng lợi to trong cuộc chống Mỹ, giúp Triều, trong việc xây dựng nǎm đầu của kế hoạch năm nǎm, và đang thắng lợi trong công cuộc củng cố và phát triển dân chủ mới”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói tiếp: “Đó là tóm tắt tình hình của phe ta. Tình hình phe đế quốc do Mỹ cầm đầu thì thế nào? Mỹ và mười sáu nước phe Mỹ (trong đó gồm có Anh và Pháp) đã thất bại nhục nhã ở Triều Tiên. Từ cuối thế kỷ XIX đến ngày nay, Mỹ đã nhiều lần nhờ chiến tranh mà làm giàu và chiếm được địa vị anh chị. Lần này là lần đầu tiên (nhưng chưa phải là lần cuối cùng) mà Mỹ thất bại to, đã hao người (hơn 397.500 binh sĩ Mỹ chết và bị thương), tốn của (hơn hai mươi ngàn triệu đôla), lại mất mặt với các nước. Thế của Mỹ ngày càng yếu ở Hội Liên hiệp quốc, phe Mỹ càng thêm lủng củng chia rẽ, kinh tế Mỹ ngày khủng hoảng thêm… Nói tóm lại: phe Mỹ là ba phe bảy mảng, thế ngày càng suy”. Tuy nhắc nhở các ủy viên Trung ương, “chúng ta không được chủ quan khinh địch”, nhưng ngay sau đó, Hồ Chí Minh đã nói: “Những hoạt động của địch không phải vì chúng mạnh, mà vì chúng yếu thế… Để phá tan âm mưu của địch, chúng ta phải ra sức đẩy mạnh kháng chiến. Để đẩy mạnh kháng chiến, chúng ta phải thực hiện cải cách ruộng đất”.

Chính Hồ Chí Minh đã tự phê phán: “Chúng ta đã nặng về đoàn kết địa chủ để kháng chiến mà không xem trọng đầy đủ vấn đề nông dân và vấn đề ruộng đất”. Theo Hồ Chí Minh: “Nông dân ta chiếm 95% dân số, mà chỉ được có 3/10 ruộng đất, quanh nǎm khó nhọc mà suốt đời nghèo nàn. Giai cấp địa chủ không đầy 5% nhân số mà chiếm hết 7/10 ruộng đất, ngồi mát ăn bát vàng. Tình trạng ấy thật là không công bằng. Nước ta bị xâm lược, dân ta lạc hậu và bần cùng cũng vì đó”411. Cũng trong trung tuần tháng 11-1953, một “hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng” được nhóm họp để “tán thành chính sách cải cách ruộng đất do Trung ương đề ra”. Từ ngày 1 đến 4-12-1953, Quốc hội họp kỳ thứ III thông qua Luật Cải cách Ruộng Đất. Theo ông Hoàng Tùng: “Ngay sau khi Bác quyết định cải cách ruộng đất, Trung Quốc đã cử các đoàn cố vấn sang. Đoàn Cố vấn Cải cách ruộng đất do Kiều Hiểu Quang, phó bí thư Tỉnh ủy Quảng Tây, phụ trách”.

Về phía Việt Nam, Ủy ban Cải cách Ruộng đất cũng được thành lập ở hai cấp trung ương và địa phương. Ở cấp trung ương có chủ tịch Ủy Ban, Tổng Bí thư Trường Chinh, phụ tá – hai ủy viên Bộ Chính trị Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, và một ủy viên Trung ương, Hồ Viết Thắng, người vừa đi Trung Quốc học về cải cách ruộng đất. Tại địa phương, mỗi tỉnh lập ra mười đoàn, mỗi đoàn có khoảng 100 cán bộ. Đoàn trưởng nhận lệnh trực tiếp từ Ủy Ban Cải cách, không qua hệ thống đảng và chính quyền địa phương. Mỗi đoàn lại chia ra thành nhiều đội. Đội trưởng được chọn trong số bần nông hay bần cố nông. Đội có quyền hành tuyệt đối, chỉ nhận lệnh từ Ban Cải cách.

Trước khi những cuộc đấu tố địa chủ diễn ra, các cán bộ cải cách được đưa về làng, thực hiện chính sách “tam cùng”: cùng làm việc, cùng ăn, cùng ngủ. Vào làng, cán bộ thấy ai là thành phần nghèo khổ thì “tam cùng” để làm thân, rồi tiếp đó “thăm nghèo hỏi khổ”. Ngoài việc thu thập thông tin để “xếp loại kẻ thù”, đội còn khơi gợi người nông dân thổ lộ nỗi khổ, khơi gợi lòng căm thù và tìm kiếm những người có thể bồi dưỡng để tham gia đấu tố. Những phụ nữ đã từng có quan hệ với những người giàu trong làng sẽ được đội động viên, thúc ép, hoặc đe dọa để họ đứng ra tố là đã từng bị “cường hào cưỡng hiếp”. Vợ, con cái địa chủ cũng bị lôi kéo để đấu tố cha, chồng. Cải cách ruộng đất không chỉ mang lại những tổn thất về mặt con người mà còn phá vỡ những nền tảng đạo đức làng xã, gia đình, những tôn ti, trật tự giữa cha mẹ, vợ chồng,… những giá trị mà người Việt phải mất hàng nghìn năm kiến tạo.

Kể từ cuối 1952 đến năm 1956, trên địa bàn của 3.314 xã miền Bắc Việt Nam diễn ra tám đợt “phát động quần chúng” giảm tô và năm đợt cải cách ruộng đất, tịch thu hơn bảy mươi vạn hecta, bằng 44,6% ruộng đất trong vùng. Số người bị quy oan lên tới 123.266 người, chủ yếu vì các biện pháp truy bức để “đôn” tỷ lệ địa chủ lên trên 5% dân số như một định mức bắt buộc, dùng nhục hình như đánh, trói, giam cầm, khi chưa có tòa án xét xử, kích động và hù dọa quần chúng để họ tố oan cho nạn nhân. Ở trên thì “phóng tay phát động”; ở dưới, những “đoàn”, những “đội” cải cách thì tha hồ lộng quyền, “nhất đội nhì giời”. Một quốc gia nghèo đói như Việt Nam lúc ấy mà các đội đã đưa được “định mức địa chủ” lên tới 5,68% dân số các địa phương tham gia.

Theo ông Hoàng Tùng, về sau chính Hồ Chí Minh đã phải than: “Mình nói để cho mình đánh Pháp xong đã rồi sẽ cải cách theo cách của Việt Nam nhưng mà cứ ép cho bằng được”. Biết bao trí thức, địa chủ đã theo Việt Minh, đã đóng góp tiền bạc từ những ngày khó khăn, giờ đây, bị “hai ông anh lớn” ép phải chấn chỉnh lại, không để địa chủ, người có gốc “Tây” đứng trong tổ chức. Giữa thập niên 1950, những “địa chủ không kháng chiến” thì đã “dinh tê”. Cải cách, đấu tố, theo ông Hoàng Tùng: “Coi như là đánh vào lực lượng của mình”.

Ông Hoàng Tùng kể: “Khi ấy tôi thường dự họp Bộ Chính trị nên cũng biết một số việc, trong đó có việc thí điểm cải cách chọn bắn bà Nguyễn Thị Năm”. Bà Năm nổi tiếng ở Hà Nội với tên gọi là Cát Hanh Long. Bà có hai con là cán bộ Việt Minh, một người là cán bộ bậc trung đoàn trưởng làm việc ở Cục Chính trị của Văn Tiến Dũng. Từ năm 1945 đến 1953 bà Năm tham gia công tác ở Hội Phụ nữ. Trong “tuần lễ vàng”, gia đình bà hiến 100 lượng vàng. Theo ông Hoàng Tùng: “Các anh Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ thường ăn cơm ở nhà bà và được bà Năm coi như con. Họp Bộ Chính trị, Bác nói: ‘Tôi đồng ý người có tội thì phải xử, nhưng tôi cho là không phải đạo khi phát súng đầu tiên lại nổ vào người

đàn bà mà người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng’. Sau, Cố vấn Trung Quốc La Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: ‘Thôi, tôi theo đa số chứ tôi vẫn cho là không phải”.

Ông Hoàng Tùng nói: “Hồ Chí Minh bị nó coi là hữu khuynh. Khi ấy mà kháng cự thì nó cắt viện trợ”. Để có viện trợ, theo ông Hoàng Tùng: “Mỗi ngày, đội cải cách thường phải tìm cho ra một người để bắn thị uy, nói là để cho nông dân phấn khởi. Tôi đi xem bắn một vụ, tôi thương quá, anh ấy chỉ có 7,5 mẫu ruộng”. Chính Hồ Chí Minh và các ủy viên Bộ Chính trị đều biết các đội đã dùng nhục hình để quy sai địa chủ nhưng việc chấn chính chỉ dừng lại ở những lời răn dạy412.

Ông Hoàng Tùng, ngay từ đầu cuộc nói chuyện đã gọi các “đồng chí Trung Quốc” là “nó”, tiếp: “Không chỉ có địa chủ bị bắn, nhà thờ, nhà chùa, đền đài đều bị nó phá sạch. Đền thờ An Dương Vương thì nó dùng làm nơi để phân bón. Ông Trường Chinh thì có mặc cảm, vì nhà cũng có bảy mẫu ruộng, do ông chủ yếu làm nghề viết báo nên cho người ta cày rẽ lấy tô, rất dễ bị ‘quy’. Ông Hoàng Quốc Việt thì không sâu sắc, ông Hồ Viết Thắng thì hăng hái quá. Bố ông Trần Quốc Hương, một ông thầu khoán, dành dụm mua được hai mươi mẫu ruộng, cũng bị ‘đội’ đem ra đấu. Khi ông Hương nghe, chạy về tới nơi thì bố ông đã chết. Ông Hương than: Thôi, ruộng đất thì không tiếc gì, nhưng không thể chịu được cảnh con đấu cha, vợ đấu chồng. Cách mạng cũng phải có đạo đức chứ. Bố ông Nguyễn Khắc Viện là Nguyễn Khắc Niêm, từng đỗ đầu tiến sỹ làng Giáp, Tây đưa lên hàng thượng thư.

Kháng chiến, Hồ Chí Minh cũng có thư vận động ông Niêm. Khi cải cách, bị ‘đội’ bắt, ông Nguyễn Khắc Niêm đã tự tử chết”.

Cùng với cải cách ruộng đất, chiến dịch “chỉnh đốn tổ chức Đảng và chính quyền” mà Hồ Chủ tịch ca ngợi trong báo cáo trước Hội Nghị Trung ương 5 cũng đã gây tổn thương nặng nề cho Đảng413. Ông Hoàng Tùng nuối tiếc: “Mình không hiểu thâm ý Trung Quốc là muốn sửa ta. Việc đầu tiên là họ sửa quân đội, lập ra chức chính ủy. Chính ủy là người bao trùm lên tư lệnh, ý họ muốn nhắm vào ông Giáp,

một vị tướng xuất thân từ trí thức và mới chỉ tham gia đảng cộng sản từ năm 1940. Trung Quốc cho rằng ông Giáp xuất thân không phải là công nông mà nắm quân đội là không ổn. Có người, mà tôi ngờ là Lý Ban, phó của Văn Tiến Dũng, đưa cho cố vấn Trung Quốc một danh sách những cán bộ xuất thân không phải công nông định để gạt ra khỏi quân đội. Ông Giáp đưa danh sách đó cho Bác, Bác bảo đốt ngay, thay bằng ấy người thì quân đội không còn cán bộ”.

Có tới 71,66% phú nông bị quy sai là địa chủ. Theo ông Hoàng Tùng, Pháp và Mỹ chỉ phải chịu trách nhiệm một phần, chính cải cách ruộng đất, đánh thuế công thương nghiệp và cải tạo tư sản, là nguyên nhân chính khiến cho hơn một triệu người miền Bắc đã phải di cư vào Nam414.

“Mỗi người làm việc bằng hai”

Nếu mô hình Stalin và Mao Trạch Đông được giới hạn ở những gì áp dụng trước năm 1956 thì miền Bắc vẫn còn cơ hội khôi phục. Chính sách cải cách ruộng đất của Hồ Chí Minh cũng đã đưa số ruộng đất “tước đoạt của giai cấp địa chủ” chia cho 72,8% số hộ nông dân Miền Bắc, chủ yếu là dân nghèo. Trước năm 1960, những người nông dân nhận đất này chưa phải vào hợp tác xã. Nhờ được tự do canh tác trên mảnh ruộng của mình, họ đã khiến cho nền nông nghiệp miền Bắc có một giai đoạn phát triển khá tốt đẹp. Tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ cũng đạt mức tăng trưởng nhanh cả ở nông thôn và thành thị. Có lúc, lực lượng thợ thủ công miền Bắc đã lên tới hơn nửa triệu người. Đến cuối năm 1957, miền Bắc vẫn còn 78.456 cơ sở buôn bán. Cải cách ruộng đất đã không chỉ được nhớ đến như một sai lầm nếu những người nông dân được chia ruộng tiếp tục được làm chủ đất đai của họ.

Hội nghị quốc tế “các đảng anh em” lần I mà Hồ Chí Minh tham gia, họp tại Moscow tháng 11-1957, đã khẳng định nguyên lý xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Thiết lập nền chuyên chính vô sản dưới hình thức này hay hình thức khác, thủ tiêu chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và xây dựng chế độ sở hữu công cộng, cải tạo nông nghiệp theo chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế có kế hoạch, thực hiện cách mạng tư tưởng văn hoá”.

Ngay sau khi từ Moscow trở về, ngày 1-1-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố trước quốc dân: “Thời kỳ khôi phục kinh tế đã kết thúc và mở đầu thời kỳ phát triển kinh tế một cách có kế hoạch”. Trung tuần tháng 11-1958, Trung ương họp hội nghị lần thứ 14, quyết định: “Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và kinh tế tư bản tư doanh…”. Ngay trong mùa thu năm 1958, đợt thí điểm đầu tiên về hợp tác hóa nông nghiệp đã được tiến hành. Đến cuối năm 1960, 86% số hộ nông dân miền Bắc bị đưa vào 41.401 hợp tác xã. Cuối năm 1960, 97% hộ tư sản bị buộc phải “công tư hợp doanh”.

Cho dù “giai cấp tư sản miền Bắc đã phản ứng, đôi khi khá gay gắt”, tháng 4- 1959, nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 16 tuyên bố: “Nếu trong hàng ngũ tư sản có người quyết chống lại sự cải tạo…, trong trường hợp ấy, đó là mâu thuẫn giữa ta và địch. Những phần tử tư sản kiên quyết chống lại cải tạo xã hội chủ nghĩa là những phần tử tư sản phản động”.

Càng “tuân thủ mô hình Liên Xô”, tình hình kinh tế miền Bắc càng trở nên bi đát. Ngay từ những năm đầu 1960, từ công nghiệp, thương nghiệp, cho đến tài chính đều bị đình đốn, đời sống cả nhân dân và cán bộ đều thiếu thốn khó khăn. Ở nông thôn, 80% thu nhập của các xã viên hợp tác xã có được nhờ vào đất “năm phần trăm”, còn 95% diện tích ruộng đất đưa vào hợp tác xã chỉ để “làm qua loa, tính công, chia điểm…”. Cuộc sống ở nông thôn trở nên u ám.

Ông Vũ Quốc Tuấn415 kể: “Năm 1965, tôi đạp xe về làng, thấy tám giờ sáng nông dân mới ra đồng. Tôi nói: Làm thế này thì đói. Bà con bảo: Thì có cái gì ăn đâu mà không đói hở bác”. Điều đáng nói, theo ông Tuấn, những người nông dân này đều vốn rất chí cốt với nghề nông, khi còn ruộng cá thể, họ thức dậy từ ba bốn giờ sáng ra đồng. Vào hợp tác xã thì mãi tới khi mặt trời treo ngọn tre, nông dân mới bắt đầu uể oải cầm liềm, vác cuốc. Ngay từ khi đó, nông dân miền Bắc đã nói: “Mỗi người làm việc bằng hai / Để cho chủ nhiệm mua đài, mua xe”.

Khi còn là Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, chính sách ruộng đất mà Lê Duẩn áp dụng ở miền Nam khá mềm dẻo. Nhưng khi trở thành Bí thư Thứ nhất, nhất là sau khi đi dự Hội nghị quốc tế lần thứ II416, Lê Duẩn bắt đầu coi việc tuân thủ những “kinh nghiệm của Liên Xô” là “vũ khí sắc bén”. Sau Hồ Chí Minh, “Lê Duẩn là nhà thiết kế chính, nếu không nói là duy nhất, của mô hình kinh tế miền Bắc suốt từ năm 1960 đến 1975, và sau đó ông cũng là nhà thiết kế chính của mô hình kinh tế cả nước từ 1975 cho tới giữa năm 1986”417.

Lê Duẩn và mối tình miền Nam

Ông Lê Duẩn được những người giúp việc mô tả là “một người có cái đầu chỉ thích suy nghĩ”. Chưa bao giờ ông thoả mãn với những mô hình kinh tế áp dụng ở miền Bắc lúc bấy giờ. Ông thường xuyên đối thoại với những nhà lý luận hàng đầu418 nhưng chưa có một ý tưởng nào tồn tại đủ lâu để có thể hình thành trong ông và trong nhóm chuyên gia một con đường rõ rệt.

Ông Đống Ngạc kể: “Một lần đi Hungary, thấy nông dân được canh tác tới năm mươi hecta ruộng, anh Ba rất thích nhưng khi trao đổi với một số nhà kinh tế, họ nói: ‘Làm như thế lâu [lên chủ nghĩa xã hội] lắm anh ạ’, anh Ba lại thôi”. Theo ông Trần Phương thì nhiều lần, ông Lê Duẩn bàn với ông nghiên cứu áp dụng mô hình Bắc Triều Tiên nhưng khi ông Trần Phương nói rằng miền Bắc Việt Nam chưa đủ điều kiện làm như vậy thì “anh Ba im lặng”. Đầu thập niên 1970, khi nhìn thấy những bất hợp lý của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, theo ông Nguyễn Đức Bình, ủy viên Bộ Chính trị khóa VII, ông Lê Duẩn đã tỏ ra thận trọng khi đưa ra khái niệm “bước đi ban đầu”. Ông Bình nói: “Khái niệm này đã làm nức lòng giới lý luận đầu những năm bảy mươi”. Tuy nhiên, cũng theo ông Bình: “Rất tiếc, khái niệm đó đã bị chìm đi tại Đại hội IV, 1976, trong không khí say sưa vì thắng lợi”. Bài phát biểu trước Hội nghị Trung ương 24, ngày 13-8-1975, cho thấy mâu thuẫn khá rõ giữa một Lê Duẩn sắc sảo nhìn thấy vấn đề trong cuộc sống và một Lê Duẩn chưa có đủ lý luận để giải thích kinh tế thị trường. Trình độ của một nhà lãnh đạo có thể được khắc phục nếu như quy trình hình thành chính sách của Đảng cho phép tranh luận thay vì chỉ trông cậy vào sự anh minh lãnh tụ.

Ông Lê Duẩn sinh năm 1907 tại Triệu Phong, Quảng Trị, trong một gia đình thợ nghèo. Bà Lê Thị Muội, con gái của ông với người vợ đầu ở quê tên là Lê Thị Sương, kể: “Là con trai một, ba tôi rất được cưng chiều, ông nội bắt tránh sông nước nên sống ở nông thôn mà không hề biết bơi”. Tuy nghèo, nhưng “cậu Nhuận”, tên ông hồi nhỏ, vẫn được gia đình cố lo cho ăn học, nhưng ông học đến lớp bốn thì “tự ý bỏ”. Theo ông Lê Kiên Thành, con trai của ông với bà Nguyễn Thụy Nga: “Ba tôi kể, trong một lần làm bài thi, thầy giáo ra đề ‘hãy kể những gì mà nước Pháp đã mang lại cho An Nam’. Ba tôi viết ‘nước Pháp chỉ mang lại sự áp bức’. Bài thi của ông bị đánh rớt, từ đó ông bỏ học”. Học hành dở dang, nhưng lớp bốn ở quê thời đó vẫn được coi là “hay chữ”, dân làng vẫn gọi ông là “cậu Thông Nhuận”. Ở nhà ít lâu, ông Lê Duẩn kiếm được một chân thư ký cho Công ty Hỏa xa Bắc Kỳ.

Tham gia hoạt động từ thời Hội Thanh Niên Cách Mạng, ông Lê Duẩn trở thành một trong những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1931,

ông bị bắt tại Hải Phòng khi đang là ủy viên Ban Tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ, bị xử án hai mươi năm cầm cố, bị đưa qua các nhà tù Sơn La, Hỏa Lò, Côn Đảo. Năm 1936, nhờ thắng lợi của Mặt trận Bình dân Pháp, chính quyền Đông Dương trả tự do cho nhiều tù chính trị trong đó có Lê Duẩn. Năm 1937, ông được cử giữ chức bí thư Xứ ủy Trung kỳ, và chỉ hai năm sau được bầu làm ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng.

Cũng trong năm 1940, Lê Duẩn bị bắt, bị đày ra Côn Đảo. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được đón về cùng với các ông Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng và Nguyễn Văn Linh. Tại Đại hội II, Lê Duẩn không dự nhưng vẫn được bầu làm ủy viên Bộ Chính trị, tiếp tục làm bí thư Xứ ủy Nam Bộ. Đây là thời gian mà Lê Duẩn kiến tạo được uy tín rất cao ở trong Xứ ủy. Theo ông Võ Văn Kiệt, ngay cả những bậc trí thức kháng chiến như Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn Thành Vĩnh, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát đều quý mến ông Duẩn và gọi ông là “ông deux cents bougies”, để diễn tả sức làm việc của ông như một “ngọn đèn 200 nến”.

Cũng như cách mà Hồ Chí Minh thi hành trong các chính phủ ban đầu, ở Nam Bộ lúc ấy, các vị trí chủ chốt như chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ,

ông Lê Duẩn đều giao cho người ngoài Đảng. Ngay một sở quan trọng như Sở Công an, ông Duẩn cũng để Luật sư Diệp Ba – một người không phải đảng viên – làm giám đốc, còn xứ ủy viên như ông Phạm Hùng thì làm phó. Vị trí Tổng chỉ huy Lực lượng Vũ trang Nam Bộ ông Duẩn cũng giao cho Trung tướng Nguyễn Bình, nguyên là người của Quốc dân Đảng.

Hình ảnh ông Lê Duẩn trong những ngày lãnh đạo kháng chiến ở miền Nam

được bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ thứ hai của ông mô tả: “Anh mặc quần rách đít, áo rách cùi chõ, người anh lúc đó nặng bốn mươi bảy ký nhưng vì cao nên trông anh khô quắt, khô queo, áo quần thì nhuốn màu phèn Đồng Tháp Mười. Sinh hoạt của anh làm tôi xúc động. Những người như ông Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Lê Thành Vĩnh trong Uỷ Ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ, người nào cũng có nhà cửa, có người bảo vệ, người nấu bếp, tuy ở nhà lá nhưng cũng rất đàng hoàng. Còn anh, chỉ có một chiếc thuyền tam bản, đến cơ quan nào, đến nhà bà mẹ nào, anh em thư ký, bảo vệ leo lên nhà ngủ, còn anh ngủ dưới ghe. Anh nhường nhịn điều kiện tốt cho mọi người”419.

Bà Nguyễn Thị Nga sinh năm 1925, con của một tri huyện cáo quan về viết báo và mở lò gạch tại Biên Hòa. Theo bà Nga thì cha bà đã từng là chủ bút tờ báo tiếng Pháp La Tribune Indigène. Năm mười hai tuổi, cô tiểu thư Nguyễn Thụy Nga đã từng phải khai tăng tuổi để thi. Năm mười bốn tuổi, Thụy Nga theo “mấy chú” đi hoạt động và cũng từ đây, cô “trót yêu một đồng chí đã có gia đình”. Người tình “đồng chí” của bà Nga chính là “hung thần chợ Đệm” Nguyễn Văn Trấn, một trong những người cộng sản lãnh đạo “cướp chính quyền” ở Sài Gòn năm 1945. Đây là cuộc tình mà “cả hai người vừa duy trì, vừa kìm nén trong suốt mười một năm”. Năm 1948, mối quan hệ của hai người bị lộ và bị Tỉnh ủy Cần Thơ họp kiểm điểm. Bà Nga bị buộc phải chuyển về Sài Gòn công tác.

Đúng lúc ấy, ông Lê Duẩn từ Đồng Tháp Mười xuống Cần Thơ, dự cuộc họp Tỉnh ủy, ông cũng được nghe câu chuyện tình của bà Nga, bấy giờ đang là nữ đoàn trưởng Phụ nữ Cứu quốc. Bà Nguyễn Thị Nga được Tỉnh ủy giao nhiệm vụ kiểm tra bữa ăn sáng mà Tỉnh tổ chức cho Bí thư Xứ ủy. Khi được ông Lê Duẩn hỏi thăm về việc bị buộc chuyển công tác, bà Nga nói: “Lên Sài Gòn, đối với tôi là một công tác mới và khó, nguy hiểm nữa, nhưng tôi vui vẻ chấp nhận, không băn khoăn gì.

Nhưng bảo tôi thôi yêu người tôi đã yêu thì khó làm được. Xa nhau cũng được nhưng yêu là do trái tim tôi, đừng bắt buộc”. Theo bà Nga thì khi ấy ông Duẩn không phát biểu gì nhưng khi trở về Xứ ủy, gặp Lê Đức Thọ, ông nói: “Nếu có cưới vợ thì tôi thích người có tình, chung thủy như chị Nga”420. Ít lâu sau, Lê Đức Thọ xuống Cần Thơ công tác, gặp bà Nga: “Anh Ba muốn hỏi chị làm vợ, chị nên ưng anh ấy đi. Anh xa nhà hai mươi năm không có tin tức gì, gia đình anh còn ở vùng địch. Nếu chị làm vợ anh ấy, chị chăm sóc anh để anh có sức khoẻ làm việc, đó cũng là một nhiệm vụ. Hiện nay trong lãnh đạo, anh ấy rất thông minh và sáng

suốt, anh em thường gọi là ông 200 bougies, khi có người kề cận chăm sóc thì anh ấy sẽ trở thành 400 bougies. Sự sáng suốt của anh ấy rất có lợi cho cách mạng”421.

Bà Nguyễn Thụy Nga nhớ lại: “Nghe anh Sáu Thọ nói, tôi chưng hửng, vì trong lòng tôi lúc nào anh cũng là một lãnh tụ mà mọi người kính yêu. Tôi lúc nào cũng ghi chép, đồng chí Lê Duẩn nói thế này, đồng chí Lê Duẩn nói thế kia. Tôi suy nghĩ mãi. Một lần tôi lấy hết can đảm hỏi anh: ‘Nếu bây giờ anh lấy vợ, sau này về gặp gia đình, phải giải quyết sao đây?’. Anh nói: ‘Anh cưới vợ trước kia là do cha mẹ cưới cho. Anh đi cách mạng, vợ ở nhà, sau có đưa ra Hà Nội ở một thời gian nhưng anh thấy hai người không hợp nhau. Có hai lần anh về nhà, anh nói với chị ấy nên tìm người chồng khác, anh đi cách mạng không giúp được gì cho gia đình và không biết sống chết ra sao. Nhưng người phụ nữ miền Trung còn phong kiến hơn phụ nữ trong Nam, đã có chồng rồi thì ở nhà lo cho cha mẹ chồng, nuôi con. Chồng đi xa có lấy thêm vợ thì người phụ nữ miền Trung cũng dễ chấp nhận. Nếu sau này giải phóng chị cũng sẽ ở trong quê với cha và mấy đứa con, lâu lâu anh về thăm. Còn chúng mình đi hoạt động cách mạng, có điều kiện gần gũi nhau, chắc không có gì khó khăn”422.

Năm ấy, ông Lê Duẩn bốn mươi mốt còn tuổi thực của bà Nga là hai mươi ba, có lẽ khi lấy nhau, họ cũng không ngờ ông Lê Duẩn rồi sẽ trở thành một nhà lãnh đạo quyền lực nhất, và cuộc hôn nhân rồi sẽ mang lại cho bà Nga nhiều rắc rối nhất. Bà Nguyễn Thụy Nga thừa nhận trong cuộc hôn nhân hơn ba thập niên của bà, chỉ có ba năm là thực sự hạnh phúc. Ông Lê Duẩn đã chọn vợ vì “đức thủy chung mà ông chứng kiến bà Nga dành cho người khác” và bà thì thừa nhận là đã chọn ông qua “đạo đức và tình cảm lớn lao mà ông đã dành cho đồng chí, đồng bào”. Đám cưới ông bà do Văn phòng Xứ ủy đứng ra tổ chức: ông Lê Đức Thọ làm “ông mai”, ông Phạm Hùng làm chủ hôn. Ông Lê Duẩn đã đọc thơ ca ngợi vợ trong một bữa liên hoan đơn giản được những người kháng chiến đứng ra tổ chức.

Bà Nga kể: “Trong tình yêu anh cũng như con nít, đi đâu anh cũng mang tôi theo. Họp hành xong, trở về nhìn thấy nhau là anh ôm chầm lấy tôi”. Họ vẫn thường di chuyển và ngủ trên một chiếc ghe tam bản có mui. Khi bà Nga mang thai người con đầu lòng tới tháng thứ bảy thì ông Lê Duẩn trở lại miền Đông. Bà Nga trở lại Sài Gòn sinh người con gái đặt tên là Lê Vũ Anh rồi gửi lại nhờ mẹ đẻ nuôi khi con mới ba tháng tuổi. Năm 1952, ông Lê Duẩn ra Bắc, kể từ đó, họ bắt đầu có rất ít thời gian ở bên nhau.

Đầu 1954, ông Lê Duẩn từ Việt Bắc về miền Nam. Thư ký riêng của ông, ông Đống Ngạc, kể: Tới Quảng Ngãi, theo lệnh của Bộ Chính Trị, ông ở lại mở lớp cho cán bộ cao cấp miền Trung Nam Bộ, một số cán bộ từ Nam Bộ cũng kéo ra Khu V tham gia lớp học này. Khi Hiệp định Geneva có hiệu lực, Bộ Chính trị chỉ thị ông trở lại Nam Bộ, đôn đốc việc thi hành, chủ yếu là lo tổ chức tập kết rồi ra Bắc. Nhưng ông Lê Duẩn đã điện ra xin “ở lại Miền Nam”. Khi những người giúp việc của ông thắc mắc, theo ông Đống Ngạc: “Anh Ba nói, anh biết rằng sẽ không có hiệp thương và rồi tình hình miền Nam sẽ rất gay go, anh phải ở lại để tính làm sao chuyển sang đấu tranh chính trị và bảo toàn lực lượng. Anh Ba cho rằng phải làm lại cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Miền Nam”.

Từ Quảng Ngãi, ông Lê Duẩn theo đường bộ vào Quy Nhơn rồi từ đó đáp máy bay của quân đội Pháp xuống miền Tây để triển khai việc thi hành hiệp định. Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Tuy là một người rất hùng biện trước các vấn đề gai góc, ông Duẩn đã phải ấp úng khi giải thích Hiệp định Geneva, bởi bản thân hiệp định đã không thuyết phục được ông”. Đó là những ngày mà theo bà Nguyễn Thụy Nga, ông Lê Duẩn rất băn khoăn, day dứt. Bà Nga kể: “Anh đi tới, đi lui, chắp hai tay phía sau, đốt thuốc hết điếu này đến điếu khác. Theo quyết định của Trung ương, sau khi sắp xếp tình hình xong, anh sẽ tập kết. Nhưng anh liên tục điện ra Trung ương, và tới lần thứ ba thì Trung ương và Bác Hồ đồng ý cho anh ở lại”423.

Khi ấy, bà Thụy Nga đang mang thai người con thứ hai. Bà Nga xin ở lại, nhưng theo bà thì ông Lê Duẩn nói: “Tình hình miền Nam rồi sẽ phức tạp lắm, em ở lại không những sẽ khổ em, khổ con mà còn dễ bị lộ cho hoạt động của anh”. Cuối tháng 3-1955, bà Nguyễn Thụy Nga cùng con gái được thu xếp tập kết trên chuyến tàu áp chót. Con tàu Ba Lan mang tên Kilinski, khi ấy đợi trên cửa Sông Đốc, Cà Mau, để chở hơn 2000 cán bộ miền Nam ra Bắc. Gia đình Lê Duẩn và Lê Đức Thọ được các “đồng chí Ba Lan” dành riêng cho hai cabin. Trước mặt báo chí và Ủy ban Giám sát, ông Lê Duẩn cùng vợ con đĩnh đạc bước lên tàu.

Khoảng mười hai giờ đêm, Kilinski nhổ neo. Ít giờ sau, một chiếc ca-nô âm thầm cập sát thành tàu. Ông Lê Duẩn hôn chia tay vợ con. Bà Thụy Nga kể: Nước mắt anh chảy xuống mặt tôi, anh nói: “Anh thương vợ con anh thế nào thì anh cũng thương vợ con đồng bào, đồng chí như thế, nên anh phải ở lại. Em ra Bắc ráng nuôi dạy hai con nên người”. Khi Lê Duẩn lên boong, một số rất ít các đồng chí thân cận của ông biết kế hoạch đứng chờ. Ông Duẩn cũng ôm hôn từ giã từng người, trong đó có Lê Đức Thọ. Rồi ông lặng lẽ leo theo mạn tàu xuống chiếc ca-nô do ông Cao Đăng Chiếm và ông Văn Viên, người của Quốc Gia Tự vệ Cuộc, lái chạy ngược vào bờ, nơi ông Võ Văn Kiệt đang chống xuồng đợi rồi đưa Lê Duẩn về một căn cứ ở Bạc Liêu.

Ông Duẩn rất thích “căn cứ” mà ông Kiệt bố trí. Đó là một cái trại nằm giữa đồng, xung quanh mênh mông sông nước. Đêm ấy, bà chủ trại thấy ông Kiệt dẫn khách về đã ngờ ngợ. Sáng, khi ông Kiệt ra phụ nhổ lông vịt làm cơm, bà hỏi: “Có phải ông Lê Duẩn?”. Ông Kiệt giựt mình nhưng phản ứng mau lẹ: “Đâu có, ổng đi hồi hôm rồi”. Bà dứt khoát: “Ông Duẩn! Cậu không tin, tôi lấy hình cho coi”. Nói rồi bà lên trang thờ lấy hình ông Duẩn xuống. Ông Kiệt thấy khó giấu, bèn dặn: “Thì ông này giống ông Duẩn nhưng chị không được nói với bất cứ ai nhé”.

Sáng hôm ấy ông Kiệt cứ phân vân, đến cuối buổi, ông rủ ông Duẩn ra vườn rồi nói thật: “Bà già phát hiện ra anh”. Ông Duẩn hỏi: “Ai nói?”. “Bà giữ hình anh trên trang thờ nên nhận ra”. Ông Duẩn lắc đầu: “Lại thằng Trần Bạch Đằng!”. Khi phụ trách thông tin Xứ ủy, ông Trần Bạch Đằng đã cho in hình ông Lê Duẩn treo khắp các cơ quan của Ủy ban Kháng chiến.

Ông Kiệt trấn an: “Nhưng bà già có ý thức lắm”. Ông Duẩn suy nghĩ rất căng rồi nói: “Nhưng chỉ cần bả mừng, bả khoe với con bả là đủ lộ rồi”. Ông lệnh: “Chuẩn bị, tối chuyển”. Tối hôm đó, ông Kiệt đưa ông Lê Duẩn qua ở với ông Cao Đăng Chiếm và ông Mai Chí Thọ. Ở đây, ông Duẩn rất kỹ, cứ có khách là ông lại vô buồng. Trong khi Cao Đăng Chiếm và Mai Chí Thọ, đều là dân công an, lại cứ thản nhiên ngồi đánh bài ngay cả khi có người lạ tới. Chỉ một thời gian ngắn sau ông Lê Duẩn lo lắng quá lại phải quay về ở chung với ông Kiệt.

Đó là những ngày cực kỳ căng thẳng. Ở trong đất liền một thời gian, thấy cần phải hạn chế xuất hiện, Lê Duẩn chuyển ra Hòn Khoai, đóng giả ông thầy thuốc Nam chữa bệnh bằng lá cây. Xung quanh ông lúc đó có Võ Văn Kiệt, Phạm Văn Xô, có thuyền, ghe, có mấy chiếc xe ngựa, đảm bảo giao thông từ phía U Minh Hạ. Ông Phạm Văn Xô, một ủy viên Trung ương, được người dân quen gọi là “ông Hai xe ngựa”.

Cuối năm 1955, ông Lê Duẩn nhận được mật báo: “Địch đã biết Lê Duẩn ở lại miền Nam và đang lần theo mọi dấu vết để truy tìm”. Ông chuyển lên Bến Tre.

Theo Năm Hoành, một người cận vệ của ông lúc đó: “Bốn tháng đầu, tình hình tương đối yên tĩnh. Sang đầu tháng 5-1956, địch bắt đầu đánh phá mạnh các cơ sở của ta, anh Ba cử tôi về Bạc Liêu liên hệ với Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, chuẩn bị địa điểm để khi cần thì sẽ đưa anh Ba quay lại Khu IX”. Người tiếp Năm Hoành khi ấy là ông Võ Văn Kiệt. Thu xếp xong, Năm Hoành trở lại Bến Tre, gặp khi chính quyền Ngô Đình Diệm đang bố ráp ở huyện Giồng Trôm, ông bị bắt khi còn cách nơi ở của ông Lê Duẩn chỉ vài trăm mét.

“Cách mạng miền Nam” có thể đã khác nếu như chính quyền Sài Gòn quật ngã được khí tiết của Năm Hoành. Nhưng, dù bị tra tấn, Năm Hoành đã không khai gì về Lê Duẩn424. Sau khi Năm Hoành bị bắt, thay vì trở lại Khu IX, nơi ông Võ Văn Kiệt đã chuẩn bị đón, Lê Duẩn quyết định trở lại Sài Gòn. Ngày 14-7-1956, ông được Sáu Hoa, một cơ sở của ông Nguyễn Văn Linh, đón lên Sài Gòn bằng xe hơi. Lê Duẩn về tá túc ở nhà ông Sáu Hoa một thời gian rồi chuyển lên nhà 29 Huỳnh Khương Ninh.

Tại ngôi nhà 29 Huỳnh Khương Ninh, Xứ ủy viên Lê Toàn Thư trước đó đã đưa các cán bộ của mình về, tạo ra một “gia đình bình phong”. Bà Nguyễn Thị Loan, khi ấy là một phụ nữ trẻ, được Xứ ủy yêu cầu mang theo hai đứa con còn nhỏ về đóng vai vợ một sỹ quan có chồng chinh chiến xa. Anh Trịnh Long Nhi, một nhà giáo, đóng vai “anh Hai” của Loan. Chị Danh, một công chức thuế quan làm việc ở sân bay Tân Sơn Nhất, đóng vai vợ Nhi. Người lớn nhất trong nhà là “bà dì” Nguyễn Thị Một và ông Phan Phát Phước, vào vai “anh bếp”. Từ cuối tháng 7-1956, ngôi nhà này có thêm “chú Chín”.

Theo bà Nguyễn Thị Loan, trong cái đêm “chú Chín” Lê Duẩn được ông Lê Toàn Thư dẫn đến nhà 29 Huỳnh Khương Ninh, ông nom như một ông già bảy mươi với dáng gầy gò, râu dài chấm ngực, dù năm ấy ông chỉ mới chưa đầy năm mươi tuổi. Tại đây, sau khi được cắt tóc, cạo râu và thay quần áo cho giống một ông già Sài Gòn, ông Lê Duẩn bắt đầu viết Dự thảo Đề cương Cách mạng Miền Nam.

Bản Đề cương nổi tiếng này, theo bà Loan: “Chú Chín” viết tới đâu lại đem xuống hầm cất giấu, tới đêm mới mang lên để bà Loan và ông Phước chép lại giữa hai dòng của một cuốn tiểu thuyết, bằng một thứ mực hóa học do ông Phước tự chế từ những trái cây mà bà Loan gọi là trái “ngũ bội”. Ông Lê Duẩn ở lại miền Nam cho tới đầu năm 1957, cho dù, theo bà Hồ Anh – người được Trung ương Đảng cử tìm cách liên lạc với ông – từ năm 1956 “Bác Hồ” đã quyết định gọi ông Lê Duẩn ra Hà Nội.

Ngày 3-9-1956, bà Hồ Anh đi Quảng Châu, Trung Quốc, định tìm đường từ Hong Kong tới Sài Gòn để đón ông Lê Duẩn, nhưng các “bạn Trung Quốc” cho là phương án này không thể thực hiện. Bà Hồ Anh liền liên lạc với một đảng viên cộng sản Trung Quốc, được gọi theo bí danh là Q.M., khi ấy đang ở Phnom Penh, và “đường Phnom Penh” đã được Trung ương đồng ý. Từ Hà Nội, Phạm Hùng viết cho Lê Duẩn một lá thư đã được mã hóa để bà Hồ Anh cầm theo làm tin. Ông Q.M. nhận được lá thư, chuyển về Sài Gòn trao tận tay ông Lê Duẩn. Bà Loan dẫn “chú Chín” ra tiệm ảnh, chụp hình làm giấy thông hành còn “anh Hai” Trịnh Long Nhi thì dẫn ông đi cắt may một bộ đồ complet sang trọng.

Theo lệnh của ông Phan Văn Đáng425, ông Lai Thanh, một cơ sở người Hoa của Xứ ủy, lo liệu giấy tờ và trực tiếp lái xe đưa ông Lê Duẩn thoát sang Phnom Penh.

Chiếc xe Ford bốn chỗ, sơn màu đọt chuối của một cơ sở khác, tên là Nguyễn Văn Ninh, được trưng dụng cho “cuộc đào thoát lịch sử”. Ngoài ông Lai Thanh lái xe, ông Ninh chủ xe, tùy tùng thứ ba là một bảo vệ do ông Lê Duẩn trực tiếp lựa chọn: ông Bảy Dự Nguyễn Võ Danh426, vốn là một cán bộ binh vận mà ông Lê Duẩn biết rõ khi còn ở Đồng Tháp.

Khi ấy, lệnh truy đuổi Lê Duẩn đã được chính quyền Ngô Đình Diệm ban xuống gắt gao. Ở trạm kiểm soát Gò Dầu, Tây Ninh, Bảy Dự phán đoán có ít nhất năm loại tình báo đang rình rập. Ông Ninh cầm xấp giấy tờ chạy xuống trình, thấy trong bót gác có lệnh truy nã Lê Duẩn dán hình ông hồi kháng chiến. Nhưng mật vụ kiếng đen thò đầu nhìn vào trong xe không tìm ra được mối liên hệ nào giữa một ông “bận đồ lớn”, mặt mũi phương phi, đeo kính trắng với ông Duẩn gày gò trên tờ truy nã. Cùng với khoản lót tay hậu hĩ, Lê Duẩn thoát sang Svay Rieng không mấy khó khăn. Tại đây, ông dừng lại để làm giấy tờ giả dưới danh nghĩa Việt kiều.

Tại Phnom Penh, ông Lê Duẩn triệu tập Xứ ủy Nam Bộ lên họp bàn về tình hình “cách mạng miền Nam” trước khi ông lên một tàu buôn Anh chạy tuyến Phnom Penh – Hong Kong, theo sông Tiền, trở lại miền Nam Việt Nam, lênh đênh bốn ngày, năm đêm trên biển. Trong những ngày ấy, Lê Duẩn phải đóng vai “ông già câm” để khỏi phải giao tiếp với những người trên tàu. Đi cùng ông là Q.M. Trong vai một “đứa cháu” người Hoa, Q.M. sẽ đưa ông Lê Duẩn về Quảng Châu, nơi đó họ gặp lại nữ đồng chí Hồ Anh cũng vừa bay từ Phnom Penh đến. Ngày 4-6-1957, máy bay chở Lê Duẩn từ Trung Quốc trở về đáp xuống sân bay Gia Lâm.

Năm 1955 bà Nga tập kết ra Bắc cùng với con gái Vũ Anh, khi ấy, bà đang mang thai người con thứ hai về sau được đặt tên là Lê Kiên Thành. Thoạt đầu, bà Nguyễn Thụy Nga được phân công làm việc ở báo Phụ Nữ Việt Nam.

Trong suốt mùa hè đầu tiên ở miền Bắc, bà được bố trí ở trong một gara ô tô mái lợp tôn nóng bức cùng với hai phụ nữ có con nhỏ khác. Về sau, bà Mai Khanh, vợ của ông Phạm Hùng, đưa bà về ở chung trong một biệt thự trên đường Phan Đình Phùng. Tuy nhiên, ở đây mẹ con bà đã không khỏi chạnh lòng khi những người khách đến thăm ông Phạm Hùng tặng quà con cái chủ nhà mà không ai để ý đến những đứa trẻ, con của một lãnh đạo tối cao, khi ấy cũng đang khát khao quà cáp.

Một trong những việc đầu tiên mà bà Nga làm khi ra Bắc là viết thư về thăm người bố chồng mà bà chưa bao giờ gặp mặt. Khi ấy, bố ông Lê Duẩn đang sống ở Nghệ An với con dâu là bà Lê Thị Sương, người vợ đầu ở quê của ông. Thoạt đầu, bố chồng bà đã nhờ Khu ủy Khu IV gửi trả lại món quà của bà Nga, còn bà Lê Thị Sương thì chỉ khóc. Tuy nhiên, tình hình được cải thiện khi bà Sương chấp nhận trả lời thư của bà Nga427. Sau đó, trong một dịp Tết, bà Nga đưa con về Nghệ An thăm nhà chồng. Những đứa trẻ Vũ Anh, Kiên Thành đã chiếm được cảm tình của ông nội và bà “mẹ lớn”.

Nếu không có sự “tham gia” của đoàn thể, có thể ông Lê Duẩn đã thu xếp được chuyện gia đình với hai người vợ. Nhưng, trước khi ông Lê Duẩn được điều ra Hà Nội, bà Nguyễn Thụy Nga kể: “Anh Phạm Hùng, chị Nguyễn Thị Thập nói với tôi, trước kia vì sự nghiệp của anh mà chị ưng anh ấy, bây giờ cũng vì sự nghiệp của anh, chị nên chủ động ly dị để anh làm tròn nhiệm vụ”. Khi ấy Quốc hội vừa có Luật Hôn nhân và Gia đình quy định chế độ “một chồng, một vợ”.

Ông Lê Duẩn ra, vui mừng gặp lại người vợ trẻ. Nhưng, theo bà Nga: “Một hôm anh nằm gần cửa sổ trên sàn nhà, đầu anh gối lên đùi tôi để tôi nhổ tóc bạc cho anh. Tôi nói: ‘Các anh chị đề nghị chúng ta ly dị nhau’. Anh khóc và nói: ‘Trong hoàn cảnh nào chúng ta lấy nhau, giờ trong hoàn cảnh nào chúng ta bỏ nhau? Có làm tổng bí thư đi nữa mà phải bỏ nhau trong lòng anh sẽ không bao giờ yên ổn.

Người cộng sản thì phải có thủy, có chung, có tình có nghĩa’. Tôi khóc”. Mấy hôm sau, ông Lê Duẩn dẫn vợ sang Trung ương Hội Phụ nữ để trình bày, nhưng theo bà Nga thì “nhiều chị phản đối kịch liệt”. Từ đó, bà Nga nói: “Tôi trở thành đối tượng bị các chị ghét bỏ. Tôi là tỉnh ủy viên, khi ra Bắc còn chế độ nằm bệnh viện Việt Xô, nay Trung ương Hội cắt hết những quyền lợi đó, coi tôi như là một tội phạm chính trị”428.

Những đồng chí của ông Lê Duẩn như Lê Đức Thọ, người đã mai mối bà Nga cho ông, giờ đây cũng im lặng. Bà Mai Khanh, vợ ông Hai Hùng, người chủ hôn, thì cùng với vài cán bộ khác vào tận Nghệ An vận động gia đình chống lại bà. Khi ông Lê Duẩn ra Bắc, bà Nga cũng chỉ “thỉnh thoảng mới về số 6 Hoàng Diệu để thăm chồng”. Bà kể: “Có đêm chúng tôi đang nằm bên nhau đùa giỡn với bé Thành thì con gái của anh, bé Hồng, từ ký túc xá trường đại học về đập cửa rầm rầm và la khóc. Anh khuyên tôi: ‘Thôi em đi cho nó yên’. Đi đâu? Tối hôm đó bà Nga sang nhà bà Bảy Huệ, phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh; đến nửa đêm, bà Bảy Huệ đưa bà về lại số 6 Hoàng Diệu. Bà Nga nhớ lại: ‘Khi ấy Hồng đã vào trường, thấy tôi mắt anh mừng, sáng rỡ’ ”429.

Tháng 12-1957, chỉ năm tháng sau khi đoàn tụ, ông Lê Duẩn phải thu xếp để cho người vợ trẻ sang Bắc Kinh công tác. Khi ấy bà đang có mang ba tháng, vừa nuôi ba đứa con vừa công tác, vừa học trong vòng năm năm. Thỉnh thoảng, trong những chuyến công du dừng chân ở Bắc Kinh, ông Lê Duẩn mới có dịp ghé thăm. Tháng 7-1962, bà Nga trở về Việt Nam nhưng không phải để đoàn tụ. Bà được phân công làm việc ở báo Hải Phòng. Bà Nga kể: “Thỉnh thoảng anh xuống thăm mẹ con tôi nhưng không một lần nào vui vẻ, vì thường anh phải đưa cô con gái của người vợ trước đi theo. Thấy anh và tôi thân mật với nhau là nó đập phá la khóc, anh lại phải buồn hiu ra về”430.

Một lần lên Hà Nội họp, bà Nga về thăm chồng ở số 6 Hoàng Diệu. Bà kể: “Vào nhà thấy Hồng đang ăn cơm với ba, tôi vào trong thay áo ngoài. Vừa bước ra thì Hồng cầm chén cơm có chan canh đổ từ trên đầu xuống”431. Bà Nga viết: “Nhiều lần tôi muốn treo cổ tự tử ở cổng nhỏ nhà số 6 Hoàng Diệu. Nhưng tôi chết thì nhẹ cho tôi, còn anh, còn mấy đứa con tôi sẽ ra sao? Anh sẽ mất uy tín, sẽ đau khổ. Con tôi sẽ mất mẹ. Vì Đảng, vì tình thương mà tôi đã vượt qua”432. Tình riêng gác lại, từ đây Lê Duẩn được mô tả như là một người dành hết tâm, lực của mình cho đất nước.

Chấp chính và chuyên chính

Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ III, Lê Duẩn trở thành Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Thời gian này, thường các ủy viên Bộ Chính trị rất ít khi gặp nhau. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, mỗi người ở một biệt thự riêng và sinh hoạt chi bộ ở nhà với thư ký, lái xe, bảo vệ. Ông Đậu Ngọc Xuân kể: “Nhiều cụ Bộ Chính trị vẫn giết thời gian bằng cách chơi tú-lơ-khơ với tổ phục vụ, nhưng anh Ba thì chủ yếu dùng thời gian đọc sách. Vốn tiếng Pháp không nhiều lắm nhưng ông vẫn cố dành cả ngày để đọc bộ Bách khoa Toàn thư bằng tiếng Pháp. Mỗi khi chúng tôi rủ ông chơi tú-lơ-khơ, ông nói: tôi đọc sách cũng là giải trí”. Các ủy viên Trung ương lại càng ít việc. Theo ông Nguyễn Văn Trấn, Phó Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, vốn là một thợ cơ khí, nhiều hôm đã lật chiếc xe đạp của ông ra sửa để giết thời gian.

Theo ông Hoàng Tùng: Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy lề lối sinh hoạt của các thành viên trong cơ quan lãnh đạo tối cao là không ổn. Cụ Hồ nói: “Ta phải lập một chi bộ gồm tất cả ủy viên Bộ Chính trị, Bác làm bí thư để hàng tuần các đồng chí lãnh đạo còn ngồi lại với nhau chứ họp ở nhà thì coi như không làm gì cả”. Thế rồi cuối tuần, Cụ Hồ làm cơm mời các ủy viên Bộ Chính trị tới ăn, nhiều người nghe hỏi: “Hôm nay có chuyện gì hay sao thế?”. Tôi bảo: “Bác lập chi bộ”. Vào bữa, Cụ Hồ nói: “Hôm nay họp chi bộ, các chú chuẩn bị kiểm điểm, họp ở nhà toàn cần vụ, lái xe thì ai kiểm điểm các chú”. Thế nhưng, theo ông Hoàng Tùng, ăn thì họ vẫn tới ăn nhưng có khi vẫn không ai nhìn nhau cả. Có bữa ông Lê Duẩn nói “Tôi về nhà làm việc với lái xe, bảo vệ đây”.

Khi Nguyễn Chí Thanh được cử vào Nam, cuộc gặp chiều thứ bảy bỏ. Theo ông Hoàng Tùng: “Nguyễn Chí Thanh nói với Cụ Hồ: ‘Tôi đi Nam tôi rất phấn khởi, chỉ sợ ở nhà không ai chống xét lại’. Cụ Hồ cũng rất buồn, có dịp 19-5, Cụ bỏ lên Ba Vì, Bộ Chính trị kéo lên theo, Cụ bảo: ‘Các chú lên làm gì?’. Mọi người nói: ‘Lên chúc thọ Bác!’. Cụ Hồ mắng: ‘Thọ thì có gì mà chúc, điều quan trọng là các chú phải từ bỏ chủ nghĩa cá nhân đi, các chú phải đoàn kết, có đoàn kết mới thống nhất Bắc- Nam được. Các chú mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa, chú Lê Duẩn cũng cá nhân chủ nghĩa’. Năm 1967, Cụ Hồ bảo tôi và Tố Hữu thảo bài nói chuyện ‘Nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân’, tôi viết chủ nghĩa cá nhân chung chung, Cụ bảo: ‘Vấn đề là ở cấp trung ương chứ không phải ở cơ sở’”.

Ông Trần Việt Phương, người cùng với Vũ Kỳ, Lưu Văn Lợi, sống bên cạnh Hồ Chí Minh tại Phủ chủ tịch từ năm 1954 đến 1969, kể: “Hồ Chí Minh nói: ‘Chú Ba, chú Năm, chú Tô phải thống nhất ý kiến với nhau rồi mới đưa ra Bộ Chính trị’. Bộ Chính trị họp ngay nhà sàn, trước họp ở Phủ Toàn quyền cũ. Khi về Hà Nội, chính phủ lúc đầu ở 108 sau về Phủ Toàn quyền. Nhưng rồi Hồ Chí Minh xuống ở dãy nhà của những người phục vụ Toàn quyền Pháp. Hồ Chí Minh chọn nhà ở một tầng của một người thợ điện. Phạm Văn Đồng ở cách đấy mười mét, dãy nhà sau, tầng thứ hai. Chúng tôi ở trong một garage trước chứa mười chiếc ô tô nằm giữa nhà Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Phạm Văn Đồng nhiều lúc trở thành người trung gian giữa Trường Chinh và Lê Duẩn”.

Vai trò của Bí thư Lê Duẩn càng trở nên nổi bật sau khi Hồ Chí Minh qua đời. Sau khi khiến dân chúng xúc động qua bài điếu văn đọc trong “Lễ tang của Bác”, ông được mô tả như là một học trò xuất sắc nhất của “Cha Già Dân tộc”.

Theo ông Đậu Ngọc Xuân, khi bệnh tình của Hồ Chí Minh đã chuyển sang giai đoạn khó lòng cứu chữa, Bộ Chính trị phân công ông Phạm Văn Đồng và ông Trần Quốc Hương chuẩn bị bài điếu văn để Bí thư Lê Duẩn đọc. Ngày 2-9-1969, Cụ Hồ đã qua đời, nhưng khi đọc bản dự thảo điếu văn vẫn không ai đồng ý. Ông Lê Duẩn nói với Đống Ngạc và Đậu Ngọc Xuân: “Tôi lo quá, hai chú nghĩ xem ta tự viết lấy được không”. Xem bản thảo do bên chính phủ viết xong, ông Đậu Ngọc Xuân nói: “Anh Ba ơi, bài điếu văn này chỉ viết để dành cho cán bộ bình thường thôi, không phải cho lãnh tụ”.

Ông Xuân kể tiếp: “Khi ấy, tôi sực nhớ có hai bài điếu văn mà khi học tiếng Nga ở Liên Xô tôi rất thích: bài điếu đọc trước mộ của Karl Marx và bài điếu do Stalin đọc trong lễ tang Lenin”433. Khi ấy đã chín giờ đêm, ông Đậu Ngọc Xuân lập tức yêu cầu Văn Phòng Trung ương lục tìm trong các tuyển tập hai bài điếu văn ấy. Đến mười hai giờ thì tìm ra, cả ông Xuân và ông Đống Ngạc viết luôn một mạch cho tới năm giờ sáng. Theo ông Xuân thì điểm nhấn mà ông học được từ bài điếu văn đọc trong lễ tang Karl Marx và Lenin là câu “Vĩnh biệt Người, chúng ta thề!”.

Sáng hôm sau, ông Lê Duẩn xuống, hỏi ngay: “Ra không?”. “Dạ có, không giống hai bài cũ”. “Đưa tôi xem”. Trong cuộc họp sau đó, các ủy viên Bộ Chính trị đã lần lượt nghe đọc qua năm dự thảo. Đến bài do nhóm giúp việc của ông Lê Duẩn trình thì ông Trường Chinh nói: “Đúng đây rồi!”. Bộ Chính trị liền giao cho Tố Hữu phối

hợp với các ông Đống Ngạc, Đậu Ngọc Xuân, hoàn chỉnh. Khi bài điếu văn đã hoàn thành, có một lo ngại khác đó là giọng Quảng Trị của ông Lê Duẩn. Ông Duẩn vốn rất dở khi đọc diễn văn, nhưng đến bài điếu văn này, theo ông Xuân, ông Duẩn nói: “Các chú đưa đây và yên tâm, mai tôi sẽ đọc được”. Khi đứng cạnh linh cữu Hồ Chí Minh, như nằm ngủ trong cỗ quan tài bằng pha lê, trước sự chờ đợi của muôn dân,

theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Anh Ba khóc. Chưa bao giờ anh khóc, nhưng lần đó anh đã khóc”.

Khi đã trở thành người “kế tục sự nghiệp của Bác”, Lê Duẩn càng thăng hoa. Có thời gian ông kéo nhóm giúp việc xuống Đồ Sơn và ở lại đó khá lâu để “tư duy”. Bộ Chính trị hầu như không biết ông đang làm gì ở đó. Một ủy viên quyền bính vào hàng bậc nhất như Bộ trưởng Nội vụ Trần Quốc Hoàn mà cũng mù tịt. Một lần, nhân khi Giáo sư Trần Phương từ Đồ Sơn trở về, ông Hoàn đã mời ông Trần Phương tới nhà dùng cơm. Ông Trần Phương nói: “Khi đó, tôi thấy lo lo, không biết có gì xảy ra mà bộ trưởng Nội vụ lại muốn gặp riêng. Nhưng trong bữa ăn, khi thấy ông Hoàn dò hỏi xem ông Lê Duẩn đã làm gì ở Hải Phòng, thì tôi thở phào nhẹ nhõm”. Ông Trần Phương nhớ lại: “Ở Đồ Sơn, ông ra tắm biển. Mọi người không thấy ông bơi, ông nhìn trời, nhìn nước, nhìn mây và suy nghĩ. Thực ra ông không tắm trong nước biển mà tắm trong những dòng suy tưởng. Lắm khi đùng một cái, ông quay lại nói về một loạt những suy nghĩ mà ông mới nảy sinh qua sóng biển đó”434.

Mỗi khi nói tới Đại hội Đảng lần thứ IV, ông Võ Văn Kiệt vẫn tự trách mình: “Chúng tôi ra Hà Nội mà ít ai ý thức được là mình đang tham gia quyết định vận mệnh, đường đi của dân tộc. Chúng tôi đặt niềm tin tuyệt đối vào sự anh minh của lãnh tụ còn mình thì đến đại hội như đến một đại lễ mừng chiến thắng”. Đây có thể là sự nuối tiếc của một con người trách nhiệm. Nhưng, ngày 14-12-1976, khi Đại hội IV chính thức khai mạc ở Hội trường Ba Đình, mọi việc đã được Lê Duẩn và Trung ương quyết định435. Trước đó, trên chiếc chuyên cơ IL-19 chở đoàn đại biểu của Đảng bộ Thành phố bay từ Tân Sơn Nhất ra Hà Nội, ông Võ Văn Kiệt đã nhận được lời chúc mừng của các vị đi chung về việc tại Đại hội IV, ông sẽ trở thành ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị.

Tại Hội nghị Trung ương 24, tháng 8-1975, Bí Thư Lê Duẩn nói: “Việt Nam bây giờ, đi như thế nào để tạo ra được chủ nghĩa xã hội? Đây là một vấn đề khó, khó vì sao? Chưa bao giờ người ta nói đến một nước đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trong lịch sử chưa có quy luật đó. Mác chưa nói, Lenin cũng chưa nói. Sở dĩ có chuyện đó là do ta có các nước lớn giúp đỡ thôi”. Lê Duẩn đánh giá: “Các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc đã lợi dụng sự sa lầy và suy yếu của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam mà lớn lên”, trong khi “đế quốc Mỹ và hệ thống thế giới của chủ nghĩa đế quốc đang ngày càng suy yếu và đang lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện”.

Hơn một năm sau, tại Hội nghị Trung ương 25, quan điểm của ông Lê Duẩn về “chỗ dựa” đã hoàn toàn thay đổi, ông nói: “Trước đây, chúng ta nghĩ rằng đi từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa chủ yếu nhờ có sự giúp đỡ của phe ta. Nay ta thấy, nghĩ như vậy là không đúng… Việc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở một nước trước hết là do quy luật bên trong của nền kinh tế nước ấy quyết định, do nước ấy tự làm, tự đi lên là chính”436. Theo ông Trần Phương: “Khi giải phóng miền Nam, chúng tôi đặt câu hỏi, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân rồi thì làm gì? Gần như mọi người đều tán thành: còn có thể làm gì hơn là tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội”. Ông Trần Phương nói tiếp: “Tư tưởng đó là của của Lenin. Khi đó thì đầu óc của mình chỉ biết có Lenin, cái gì Lenin đã nói thì không tranh cãi”.

Việc Đại hội Đảng lần thứ IV áp đặt mô hình kinh tế miền Bắc cho cả miền Nam là điều không thể tranh cãi. Đó là vận nước. Những điều được viết trong đường lối Đại hội IV437 chưa phải là chính sách, chưa phải là những quy phạm, mà chỉ là những khái niệm mơ hồ thể hiện khát vọng của những người cộng sản. Những ngôn từ rất chung ấy có thể được suy diễn theo hướng tích cực bởi những người có đầu óc thực tế và có trách nhiệm với dân. Nhưng các nhà lãnh đạo khi ấy không chỉ so mình với “lịch sử 4.000 năm”. Bí thư Trung ương Xuân Thủy, khi làm thơ, còn tưởng “Ta đang tới đỉnh cao nhân loại”. Câu thơ ấy của Xuân Thủy minh họa phát biểu của Bí thư Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25 – người lãnh đạo cao nhất, khi ấy, cũng tưởng thế giới đang nhìn Việt Nam “khâm phục lắm”438.

Ngay từ ngày 09-08-75, tức là chỉ hơn ba tháng sau khi giành được chiến thắng ở miền Nam, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết “triển khai thăm dò dầu khí trên cả nước”, với yêu cầu “nhanh chóng tìm ra và khai thác nhiều dầu, khí, vừa đủ dùng trong nước, vừa có thể xuất, tạo nguồn ngoại tệ quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”. Chưa đầy một tháng sau Hội nghị Trung ương 24,

ngày 20-9-1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 245, sáp nhập hơn sáu mươi tỉnh thành của cả nước thành hai mươi chín tỉnh và bốn thành phố. Việc sáp nhập các tỉnh theo Nghị quyết 245 là “nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chánh có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất”.

Nếu như ở Hội nghị Trung ương 24, ông Lê Duẩn còn thấy phải thận trọng khi áp dụng mô hình miền Bắc vào miền Nam, thì ở Hội Nghị Trung ương 25, tháng 9- 1976, ông nói: “Ta có thể đem những hiểu biết (hợp tác xã ở miền Bắc) ấy vào làm ở miền Nam, làm trên cả 500 huyện trong cả nước để trong vòng năm năm tới,

nông nghiệp cả nước sẽ lên chủ nghĩa xã hội như nhau”439. Ý tưởng của Tổng Bí thư Lê Duẩn về “pháo đài huyện” ngay lập tức trở thành đề tài nóng bỏng của cả bộ máy tuyên truyền, các địa phương đua nhau đi tiên phong. Nhiều nơi đòi “thay trời đổi đất, sắp đặt lại giang san”440. Ở huyện Quỳnh Lưu, Nghệ Tĩnh441, chính quyền quyết định xóa bỏ làng xóm cổ truyền, đốn bỏ vườn cây ăn trái từ hàng trăm năm, dời các hộ nông dân lên đồi cao, để thổ cư cũ biến thành ruộng lúa442…

Cùng với mô hình kinh tế, bộ óc “200 bougies” của ông Lê Duẩn còn sáng tạo ra mô hình chính trị “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, và sáng tạo ra mô hình “làm chủ tập thể”. Cho dù các nhà lý luận hàng đầu trong Đảng lúc ấy cũng không hiểu Tổng Bí thư Lê Duẩn thực sự nói gì443, sau Đại hội Đảng lần thứ IV, làm chủ tập thể trở thành một môn học học bắt buộc trong các nhà trường.

Ngày 13-3-1977, tại trường Nguyễn Ái Quốc, Tổng Bí thư Lê Duẩn nói: “Loài người cho đến nay đã có ba phát minh vĩ đại có ý nghĩa bước ngoặt của lịch sử. Thứ nhất là tìm ra lửa. Thứ hai là tìm ra cách sử dụng kim khí. Thứ ba là làm chủ tập thể”444.

Đúng như ông Đậu Ngọc Xuân nhìn nhận, “phải sáng tạo lắm mới thoát ra khỏi sự giáo điều”. Mà muốn sáng tạo thì cũng phải dựa trên khả năng tư duy của những con người cụ thể. Lê Duẩn vào thời điểm ấy cho dù vẫn cháy bỏng những khát khao cũng không tránh khỏi những hạn chế về học vấn và sức khỏe.

Từ đầu thập niên 1970, bệnh tiền liệt tuyến đã khiến cho Lê Duẩn không có một đêm nào ngủ yên445 và không còn khả năng lắng nghe446. Ông Nguyễn Văn Trân447 nhận xét: “Anh Lê Duẩn có thói quen hay cắt lời người khác. Trong các cuộc họp Bộ Chính trị, họp Ban Bí thư có khi anh nói gần suốt cả buổi, không mấy ai còn thời giờ nói ý của mình”. Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Anh Ba là một con người giàu tình cảm cách mạng, có khi sôi nổi. Do đó, một mặt thì dễ gần gũi với cán bộ, quần chúng mặt khác lại có những phản ứng quá mức đối với những ý kiến khác mình. Điều đó đã hạn chế không khí dân chủ trong nội bộ, nhất là về những năm cuối đời”448.

Lê Duẩn từng nhắc nhở thuộc cấp tránh hiện tượng “đảng là của tôi, nhà nước là của tôi, của một người”449. Nhưng ông đã không nhận thấy chính mô hình chính trị mà ông đặt ra đã mắc phải những gì mà ông cảnh báo: từ chỗ còn “có cái phải thuyết phục, có cái phải bắt buộc”450 đến chỗ đối với những ý kiến khác, chỉ còn chuyên chính. Năm 1976, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn tuyên bố: “Chế độ ta là chuyên chính vô sản. Chuyên chính trước hết là đường lối của giai cấp vô sản… Đường lối đó là khoa học nhất, là đúng quy luật, là bắt buộc. Đường lối đó không hề nhân nhượng với ai, chia sẻ với ai và không hợp tác với ai… Đường lối đó là đường lối của giai cấp công nhân, không ai được chống lại. Ai chống lại những cái đó thì bắt”451.

chú thích

382 Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002, trang 933.

383 Lâm Văn Tết (1896-1982) là một trí thức có uy tín lớn ở miền Nam. Gia đình ông là một đại điền chủ ở Bạc Liêu. Từ năm 1943, ông Lâm Văn Tết hoạt động chống Pháp nhưng thân Nhật. Ông từng ủng hộ Việt Minh nhưng sau đã bỏ về thành vì không tán thành cộng sản. Dưới thời Ngô Đình Diệm, ông chống lại sự can thiệp của Mỹ và khi ông Diệm bị lật đổ, Lâm Văn Tết được mời làm phó chủ tịch Thượng Hội đồng Quốc gia, một cơ quan giống như thượng viện (nhưng không do dân bầu). Từ năm 1965, khi ông bày tỏ sự bất mãn trước việc quân Mỹ được đưa tới miền Nam, cán bộ trí vận đã vận động được ông bỏ thành theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam.

384 Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2004, trang 182.

385 Các tuyên bố quan trọng của Mặt trận đều do Ban Bí thư chuẩn bị từ Hà Nội rồi chuyển vào cho Trung ương Cục. Trong bức điện số 598 ngày 30-4-75, Ban Bí thư gửi Trung ương Cục, viết: “Ngoài này đang chuẩn bị tuyên cáo của Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Khi làm xong sẽ điện vào các anh góp thêm ý kiến” (Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2004, trang 180). Ban Bí thư làm việc chi tiết đến mức, ngay trong ngày 30-4-1975, đã gửi “Điện 597” hướng dẫn: “Bình thường, thì treo một cờ Chính phủ Cách mạng, những ngày lễ lớn thì treo thêm cờ đỏ sao vàng. Trước mắt, vào Sài Gòn treo một cờ miền Nam, đến ngày mừng chiến thắng chung hãy treo hai cờ” (trang 179).

386 Theo Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình: “Vấn đề chính trị nổi lên lúc này là nên thống nhất về mặt hành chính nhà nước vào thời gian nào? Có ý kiến cho rằng việc thống nhất hoàn toàn đất nước là không có gì phải bàn cãi vì là nguyện vọng sâu xa của toàn dân trên cả hai miền. Độc lập và thống nhất là mục tiêu cơ bản của cuộc đấu tranh trong mấy chục năm liền của dân tộc. Nhưng có nên duy trì trong một thời gian hai chính quyền với những chế độ chính trị khác nhau, miền Bắc là xã hội chủ nghĩa, còn miền Nam là chế độ dân tộc, độc lập, trung lập theo cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam? Như vậy là để miền Nam có thể tranh thủ sự viện trợ và hợp tác rộng rãi không những của các nước xã hội chủ nghĩa, các nước dân tộc mà cả các nước và tổ chức tư bản. Sau cùng, ý kiến nhất trí cho rằng nên thực hiện thống nhất đất nước hoàn toàn về các mặt càng sớm càng tốt. Tôi đã giơ tay tán thành” (Nguyễn Thị Bình, Hồi ký, Nhà Xuất bản Tri Thức 2012, trang 189).

387 Theo nhà báo, cựu dân biểu Hồ Ngọc Nhuận.

388 Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2004, trang 163.

389 Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 36, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2004, trang 223.

390 Chữ R có thể xuất xứ từ chữ Ré-gion tiếng Pháp.

391 Lúc ấy là phó bí thư Sài Gòn - Gia Định.

392 Bí thư Lê Duẩn nói: “Tôi đi vào trong đó xem, họ có cái máy trộn nhựa đường, cho đá vào, họ bảo trộn như thế ngay lập tức có thể tráng được 100 lần[?]. Còn ta thủ công, ngồi ngay ngoài đường làm, không được bao nhiêu cả… Tại sao người thợ ở ngoài này không bằng người thợ ở trong kia? Mình trả lời sao? Anh là chủ nghĩa xã hội mà tại sao anh lại không bằng được trong kia, anh trả lời làm sao?... Tại sao chúng nó là tư bản, chúng nó bóc lột rất dữ mà năng suất vẫn cao?”. Rồi ông trả lời: “Vì tư bản đã đi đúng theo quy luật của tư bản, nó bóc lột nhưng mà vẫn tiến lên. Còn ta là chủ nghĩa xã hội nhưng ta đã chưa đi đúng theo quy luật xã hội chủ nghĩa của ta. Đúng mặt này nhưng chưa đúng mặt kia, cho nên ta cứ chập chờn mãi, chòng chành mãi”. Ông Lê Duẩn nói tiếp: “Anh Năm[Trường Chinh] có đề nghị với tôi rằng ở miền Bắc cũng cứ cho những người thợ thủ công làm chủ một số công nhân, cứ cho họ làm đi, chứ không phải chỉ riêng miền Nam đâu. Tôi cho rằng cũng nên làm việc này, cho tự do phát triển… Bộ Chính trị sau khi nghiên cứu thấy rằng cần phải để mấy thành phần kinh tế là quy luật cần thiết trong giai đoạn bước đầu này... Ở miền Bắc trước đây phải hợp tác hoá ngay lập tức… Nhưng miền nam bây giờ không thể làm như vâỵ được. Miền Nam bây giờ nếu anh không để cho giai cấp tư sản phần nào đấy, mà nông dân thì phần nào hóa tư sản rồi, anh mà làm sai đi thì công nông không liên minh được đâu. Phải có tư sản, phải cho nó phát triển phần nào đã. Phải để kinh tế mấy thành phần thì nông dân mới theo ta, liên minh mới chặt chẽ được. Bây giờ nông dân ở miền nam họ làm rất khá. Bắt hợp tác hoá là không đúng, năng suất thấp xuống thì hỏng hết cả, nó sẽ không theo giai cấp vô sản nữa, không thống nhất được đâu”( Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung ương 24, lưu trữ tại Văn phòng Trung ương, VK.36.42).

393 Ngày 13-8-1975, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nói: “Bây giờ nói đến thống nhất đã. Chúng ta đồng tình thống nhất ngay bây giờ đây, đồng tình cả rồi đấy. Nhưng tôi nghĩ, vấn đề này cũng là một vấn đề rất quan trọng: có nội dung lịch sử của nó cơ; có nội dung chính trị, kinh tế, xã hội của nó cơ… Các đồng chí hôm qua nói, thắng lợi trọn vẹn nhất, chữ trọn vẹn ấy, tôi hiểu khác các đồng chí, trọn vẹn nhất có nghĩa là ba mươi năm nay từ khi có Đảng đến giờ, ta xây dựng được một nước Việt Nam Độc lập Xã hội Chủ nghĩa. Độc lập và chủ nghĩa xã hội, trọn vẹn là cái đó cơ” (Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung ương 24, lưu trữ tại Văn Phòng Trung ương, VK.36.42).

394 Nghị quyết Trung ương 24, khóa III, 1975.

395 Mật danh của chiến dịch “Đánh tư sản” tháng 9-1975.

396 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 24, khóa III: “Phải xoá bỏ tư sản mại bản bằng cách quốc hữu hóa cơ sở kinh tế của họ, biến thành sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý. Đối với kinh tế tư sản dân tộc, thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng hình thức công tư hợp doanh, bắt đầu từ những cơ sở sản xuất kinh doanh quan trọng. Cho phép tư sản dân tộc tồn tại và kinh doanh một số ngành nghề nhất định phù hợp với quốc kế dân sinh, với số công nhân hạn chế, dưới sự chỉ đạo của nhà nước và sự giám sát của công nhân” (Lê Duẩn phát biểu tại Hội nghị Trung ương 24, lưu trữ tại Văn Phòng Trung ương, VK.36.42).

397 Ngày 1-9-1975, Thường Vụ Trung ương Cục đã làm việc với Thành uỷ Sài Gòn-Gia Định để thông qua kế hoạch “Chiến dịch X2”. Mở đầu, ông Nguyễn Văn Trân, phổ biến: “Sau chiến thắng, chúng ta phải tiếp tục đưa cách mạng Miền Nam đi lên. Trước khi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, ta phải xác định tồn tại trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ là phải đấu tranh xoá bỏ giai cấp tư sản, giai cấp bóc lột, trước hết là giai cấp tư sản mại bản. Chúng ta đã khẳng định đối tượng của cách mạng như trên thì không bao giờ có ý kiến khác”. Bí Thư Đảng ủy Đặc biệt Võ Văn Kiệt nói thêm: “Bộ Chính trị đã nhất trí với Trung ương Cục và chỉ đạo chúng ta đánh dứt điểm tư sản mại bản như anh Trân đã trình bày. Bộ Chính trị chỉ thị cho chúng ta thêm: Phải đánh và đánh sớm”. Chủ trì buổi làm việc, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh, kết luận: “Bước sang giai đoạn mới tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải thanh toán hết giai cấp tư sản. Có nhiều cách thanh toán giai cấp tư sản và nhiều lý do: phải đi vào nhiệm vụ mới, do sự cấp bách phải ổn định tình hình đời sống nhân dân, ổn định sản xuất. Trước mắt phải đánh vào toàn bộ giai cấp tư sản mại bản. Đối với giai cấp tư sản thường [tư sản dân tộc], thì ta có biện pháp để họ làm ăn nhưng phải cải tạo họ. Đợt đầu ta tập trung đánh một số, 60 tên, nhưng cần nghiên cứu sắc lại hơn nữa. Cần nắm đầu sỏ trực tiếp các ngành quan trọng vì nếu không đánh nó sẽ tác động thị trường.

Nói đánh 60 tên nhưng thực tế sẽ lan ra cả ngàn tên” (Biên bản cuộc làm việc giữa Thường vụ Trung ương Cục với Thành ủy Sài Gòn-Gia Định ngày 1-9-1975).

398 Trả lời phỏng vấn tác giả ngày 17-12-2004.

399 Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư 1992-1997.

400 Trả lời phỏng vấn tác giả năm 2004.

401 Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng 1982-1985.

402 Trả lời phỏng vấn tác giả năm 2004.

403 Theo ông Trần Phương: “Trong một dịp nghỉ dưỡng bệnh dài ngày, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị tôi giúp ông hiểu lại toàn bộ hệ thống kinh tế học của Marx trong bộ Tư Bản mà trước đó ông đã đọc. Từ đó, tôi dành một tuần hai buổi lên nhà ông để trình bày có hệ thống từ quyển I cho đến quyển IV, thời gian ‘giảng dạy’ kéo dài khoảng sáu tháng. Sau đó, ông Giáp có giới thiệu với ông Phạm văn Đồng nên ông Đồng lại mời tôi mở lớp. Lê Duẩn thì khác, ông không yêu cầu tôi giảng giải, ông muốn tự đọc. Chỗ nào cần thì ông trao đổi trực tiếp với tôi. Trên cơ sở đó, nhiều khi ông còn đi giảng giải ở trường Nguyễn Ái Quốc, ở các cơ quan về các tư tưởng kinh tế của Marx” (Đặng Phong, Tư Duy Kinh Tế Việt Nam, Nhà Xuất bản Tri Thức 2008, trang 20).

404 Trả lời phỏng vấn tác giả.

405 Nhân Dân, 1-6-1958.

406 Năm 1945, mặc dù ở Hà Nội, Liên Xô có đại diện, nhưng người của Stalin chỉ đến gặp Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để tìm hiểu về những công dân Liên Xô trong quân đội Pháp-Nhật chứ không có cuộc gặp gỡ ngoại giao nào.

Điện của Hồ Chí Minh gửi Stalin năm 1945 cũng không hề được ông ta trả lời. Năm 1947, trong một chuyến thăm Châu Âu, Phạm Ngọc Thạch tìm cách liên lạc với Liên Xô và đã gặp được đại diện Liên Xô tại Thụy Sĩ. Tháng 12-1947, ông Thạch gửi thư đề nghị giúp đỡ tới Moscow. Nhưng ông đã phải về tay không. Đầu năm 1948, Hoàng Văn Hoan, một nhà lãnh đạo từng gắn bó với Hồ Chí Minh từ thập niên 1920, cũng từ Trung Quốc đến Thái Lan, sử dụng các mối quan hệ trong Ban Cán sự Hải ngoại của Đảng để liên lạc với các quốc gia cộng sản nhưng cũng không đạt kết quả.

407 Theo Trần Dân Tiên, Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch, xuất bản năm 1948.

408 C.E.Goscha, 2006.

409 Năm 1924, trong “Thư gửi đồng chí Pêtrôp, Tổng thư ký Đông Phương Bộ”, Nguyễn Tất Thành, khi ấy đã lấy tên Nguyễn Ái Quốc, viết: “Đấu tranh giai cấp ở phương Đông không giống Phương Tây, chủ nghĩa Marx xây dựng cơ sở lịch sử của mình ở châu Âu, mà châu Âu không phải là toàn thế giới”. Nguyễn Ái Quốc cũng đề nghị: “Cần bổ sung chủ nghĩa dân tộc, một động lực của lòng yêu nước, vào chủ nghĩa Mác”. Nguyễn Ái Quốc khi đó chủ trương “đoàn kết các tầng lớp yêu nước, tiến hành chống đế quốc trước - để giải phóng dân tộc; đồng thời hạn chế sự bóc lột của phong kiến, thành lập chính quyền cộng hòa dân chủ nhân dân, thay vì lập chính phủ chuyên chính vô sản”. Những ý kiến trên đây của Nguyễn Ái Quốc trái với những luận điểm của Quốc tế Cộng sản, đứng đầu là Stalin. Hậu quả là ông đã bị Stalin “hạn chế giao lưu với các đối tượng khác”. Năm 1925, khi Nguyễn Ái Quốc trở về Châu Á, Quốc tế Cộng sản đã không cấp cho ông giấy giới thiệu với Đảng Cộng sản Trung Quốc, với Quốc dân Đảng của Tôn Dật Tiên, không cung cấp tài chính để ông đi đường và sinh sống.

410 Ngày 14-7-1949, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 78/SL, buộc “Các chủ điền phải giảm tô cho tá điền từ 25% đến 35%; lấy ruộng đất của điền chủ người Pháp và người Việt bị ghép tội Việt gian chia cho nông dân”. Ngày 22-5-1950, ông ký Sắc lệnh số 89/SL: “Xóa bỏ hợp đồng vay nợ giữa chủ điền và tá điền trước 1945, nếu món nợ sau 1945 thì chỉ phải trả vốn mà không phải trả lãi”. Ngày 20-4-1953, ký “Sắc lệnh Giảm tô”, bằng cách “Giảm thêm giá thuê đất 25%, để tổng số phí tổn của tá điền không quá 1/3 hoa lợi”.

411 Báo cáo của Hồ Chí Minh xác định: “Mục đích cải cách ruộng đất là: tiêu diệt chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, giải phóng nông dân, thực hiện người cày có ruộng, bồi dưỡng nông dân, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến.

Phương châm là: làm cho nông dân tự giác tự nguyện đấu tranh giành lại quyền lợi của mình, dùng lực lượng nông dân để giải phóng nông dân. Phương pháp là: phóng tay phát động quần chúng nông dân; tổ chức giáo dục và lãnh đạo quần chúng nông dân đấu tranh. Phải dựa hẳn vào quần chúng nông dân, đi đúng đường lối quần chúng. Tuyệt đối chớ dùng cách ép buộc, mệnh lệnh, bao biện, làm thay. Đường lối chính sách chung là: dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông; tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt. Phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến…”.

412 Trong Nội San Cải Cách Ruộng Đất số ra ngày 25-2-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nhục hình là lối dã man, là cách của đế quốc, tư bản, phong kiến, nó dùng để trị quần chúng, trị cách mạng. Chúng ta có cuộc sống đúng, có lý lẽ đúng, có lực lượng mạnh, sao mà còn phải làm một cách dã man? Dùng nhục hình là chưa tẩy sạch tư tưởng dã man, đầu óc phong kiến đế quốc. Phải dùng nhục hình là vì không chịu khó phát động quần chúng. Vì vậy tuyệt đối không được dùng nhục hình, nếu dùng nhục hình là trái chính sách của Đảng, của Chính phủ, trái tác phong của cách mạng… Đánh người ta đau quá thì không có người ta cũng phải nhận là có. Như thế là cán bộ đã tự mình lừa mình. Từ nay các cô, các chú phải kiên quyết sửa chữa khuyết điểm này”. Tháng 10-1956, Bộ Chính trị thừa nhận: “Do tư tưởng chỉ đạo tả khuynh, tác phong đại khái, quan liêu, độc đoán, trấn áp, cho nên việc đánh địch càng đi tới càng mất phương hướng, đánh tràn lan, đánh vào địch và đánh cả vào hàng ngũ của ta, quy bức nhục hình phổ biến… Coi tổ chức của Đảng, coi tổ chức cũ của chính quyền và của quần chúng là do địch lũng đoạn, nên đã khủng bố tàn khốc những người nông dân vô tội, đả kích mù quáng vào đảng viên và cán bộ cốt cán của Đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng”.

413 Báo cáo của Bộ Chính trị năm 1956 kết luận: “Do phương châm và phương pháp đều sai lầm, truy bức và nhục hình phổ biến, nên trong việc chỉnh đốn chi bộ, đã đả kích tràn lan vào nội bộ Đảng, giải tán chi bộ bừa bãi, bắt bớ và xử trí cả những đảng viên tốt, xử bắn lầm một số bí thư chi bộ hay chi ủy viên có nhiều công lao với Đảng. Trong số 8.829 đảng viên bị xử trí ở Tả Ngạn thì 7.000 thuộc thành phần nông dân lao động và thành phần lao động khác. Ở Hà Tĩnh thì hầu hết các chi bộ xã bị kết luận sai là do phản động lũng đoạn. Có nơi chi bộ nào tốt nhất thì bị đàn áp nặng nhất, đảng viên nào tốt nhất thì bị xử trí nặng nhất. Nhiều chi bộ có công lớn trong kháng chiến đã bị coi là chi bộ phản động, bí thư và chi ủy viên bị hình phạt: tù hoặc bắn”. Báo cáo năm 1956 của Bộ Chính trị viết tiếp: “Chỉnh đốn trên thực tế là một cuộc trấn áp dữ dội bằng những thủ đoạn tàn khốc và trên một quy mô lớn đối với tổ chức Đảng ta ở nông thôn. Ở cấp huyện và tỉnh, tổng số bị xử trí là 720 cán bộ và nhân viên, tỷ lệ là 21%. Nhưng nếu lấy cán bộ từ cấp ty trở lên thì tổng cộng có 284 người, số bị xử trí lên 105 người. Tỉnh uỷ viên tại chức dự chỉnh đốn 36 người, thì bị xử trí 19 người, tỉnh uỷ viên cũ dự chỉnh đốn là 61 người thì bị xử trí 26 người, ủy viên ủy ban hành chính tỉnh dự chỉnh đốn 17 người thì bị xử trí 15 người. Riêng Hà Tĩnh, trong 19 tỉnh uỷ viên, công an hoặc huyện đội thì tất cả bị quy là phản động, gần đây kiểm tra lại thì nhận thấy tất cả đều bị quy sai.

Hàng vạn đảng viên tốt bị thanh trừng, hàng nghìn bị bắt, một số đảng viên có nhiều công lao bị xử oan, phải chịu những nhục hình rất tàn khốc dã man… dùng quần chúng để vạch tội đảng viên cũ, dùng truy bức nhục hình đối với đảng viên, giao cho cán bộ của đội không phải là đảng viên làm nhiệm vụ xử trí đảng viên…, sai lầm nghiêm trọng và vô nguyên tắc, vi phạm những quyền tự do cá nhân của người công dân, đem phương pháp đấu tranh với kẻ địch mà tiến hành đấu tranh trong nội bộ…”.

414 Trong thời hạn đình chiến 300 ngày để hai miền chuyển quân theo Hiệp định Geneve, khoảng 140.000 bộ đội và cán bộ cộng sản và gia đình đã tập kết ra Bắc; chỉ có 4.358 dân thường hồi cư, một số là phu đồn điền gốc Bắc vào Nam đã lâu, một số mới di cư vào tới nơi thì đổi ý… Trong khi đó, theo thống kê của Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn của Chính quyền Sài Gòn, có tới 950.000 người dân miền Bắc di cư vào Nam: 871.533 người đi trước ngày 19-5-1955; 3.945 người đi trong thời gian gia hạn; 76.000 người khác đã dùng thuyền hoặc đi đường bộ xuyên rừng qua Lào để vào Nam sau khi thời hạn tự do đi lại giữa hai miền chấm dứt.

415 Khi ấy là chuyên viên của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.

416 Hội nghị quốc tế lần thứ II, còn gọi là “Hội nghị 81 đảng”, họp vào tháng 11-1960. Đoàn Việt Nam do Bí thư thứ Nhất Lê Duẩn dẫn đầu đến Moscow. Sau khi ông trở về, báo Nhân Dân ngày 7-12-1960 đăng xã luận: “Trong ba năm qua, Đảng ta luôn luôn tỏ ra tuyệt đối trung thành với Bản tuyên bố năm 1957. Từ nay về sau, cũng như đối với Bản tuyên bố năm 1957 trước đây, Đảng ta nguyện triệt để ủng hộ và tuân theo bản tuyên bố mới, coi đó là vũ khí sắc bén của mình để tăng cường lực lương về mọi mặt, và tiến lên giành những thắng lợi mới”.

417 Đặng Phong, 2008, trang 51.

418 Như Hoàng Tùng, Trần Quỳnh, Đào Duy Tùng, Nguyễn Cơ Thạch, Đoàn Trọng Truyến, Nguyễn Đức Bình, nguyễn Khánh, Nguyễn Vịnh, Trần Quỳnh, Trần Phương, Đậu Ngọc Xuân,… 419 Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang 44.

420 Nguyễn Thuỵ Nga, 2000, trang 41-42.

421 Sđd, trang 42.

422 Sđd, trang 43.

423 Nguyễn Thụy Nga, 2000, trang 63.

424 Ông Năm Hoành bị kết án tám năm tù, bị đưa đến một nhà lao dã chiến ở Pleiku. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ông cùng gần 100 người tù khác vượt trại, trốn thoát sang Campuchia. Năm Hoành ở lại Campuchia cho đến năm 1963. Tại đây, ông biết tin Lê Duẩn đã an toàn ra Bắc. Năm 1964, khi đang ở căn cứ Trung ương Cục, Năm Hoành nhận được một bức điện của “anh Ba” Lê Duẩn: “Anh rất mừng được tin chú thoát khỏi trại giam của giặc và chiến thắng trở về. Mong chú mau hồi phục sức khỏe để công tác tốt” (Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002, trang 925). Tháng 6-1971, Năm Hoành được đưa ra Bắc, chỉ vài hôm sau khi ông về nhà khách K5B ở Quảng Bá, ông Lê Duẩn cho xe đến đón về nhà riêng ở số 6 Hoàng Diệu, ông Năm Hoành kể: “Tôi vừa đẩy cổng bước vào thì anh Ba ôm chầm lấy tôi, nói, ‘Chú còn sống! Thế mà khi chú bị bắt anh cứ nghĩ là chúng sẽ giết chú” (trang 926).

425 Ủy viên Trung ương Khóa III.

426 Trong thập niên 1990 là phó bí thư thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.

427 Ngày 15-5-1955, bà Lê Thị Sương viết thư cho bà Nga: “Thân gửi dì Nga! Trong năm có nhận được thư dì và cậu cháu Hãn (tức ông Lê Duẩn), vì một phần trong người ốm đau, một phần bực một vài ý kiến trong thư dì, nên cậu (cha ông Lê Duẩn) và tôi cũng có ý trách dì. Nhưng hôm nay nhận được thư dì và chị Ái, thấy dì đã nhận được lỗi lầm. Và chị Ái cũng nói hộ thêm, vì hoàn cảnh lợi ích cách mạng mà đoàn thể đặt vấn đề, tôi và cậu lấy làm thương dì lắm. Tôi rất cảm ơn dì đã tích cực giúp đỡ cậu cháu Hãn trong khi xa gia đình, xa tôi. Hôm nay cậu cũng nhận dì là người trong gia đình và tôi thành thật xem dì như một người em, dì đừng thắc mắc nữa mà tổn hao sức khỏe” (Nguyễn Thụy Nga, trang 76).

428 Nguyễn Thuỵ Nga, 2000, trang 83.

429 Sđd, trang 86.

430 Sđd, trang 127.

431 Sđd, trang 132.

432 Nguyễn Thuỵ Nga, 2000, trang 132.

433 Stalin là nhân vật mà Lenin đã nhiều lần tỏ ra quan ngại nếu quyền lãnh đạo Đảng rơi vào tay ông ta. Nhưng, khi Lenin mất, Trosky thì đang đi xa. Ở Moscow, Stalin bí mật chuẩn bị tang lễ và chuẩn bị một bài diễn văn mà khi đọc lên đã khiến cho công chúng nghĩ Stalin chính là người mà Lenin gửi gắm.

434 Giáo sư Trần Phương, khi trả lời phỏng vấn tác giả, đã cho rằng: “Những quyết định của ông Lê Duẩn cho dù hậu thế đánh giá thế nào thì cũng đều là những cố gắng sáng tạo từ sự nung nấu trong tư duy, là những sản phẩm của một bộ óc luôn luôn trăn trở, đầy trách nhiệm, đầy lo toan cho lợi ích của Đảng, của nước, và của dân”.

435 Theo Giáo sư Trần Phương: “Nghị quyết Đại hội IV đã được anh Lê Duẩn chuẩn bị từ năm 1969. Trong vòng gần một năm trời, anh Lê Duẩn đã tập hợp một số chuyên gia như Hoàng Tùng, Trần Quỳnh, tôi, Đậu Ngọc Xuân, Đống Ngạc, Đào Duy Tùng, Nguyễn Khánh và có lúc xuất hiện Nguyễn Đức Bình, rồi đưa xuống Đồ Sơn. Tại đây, anh Lê Duẩn phác ra ý tưởng, bọn này chất vấn, thảo luận hoặc đồng tình. Khi viết gần xong, anh bảo: “Khoan đã, chờ kết thúc cuộc chiến thế nào đã”. Việc chuẩn bị vì thế tạm ngưng vào năm 1970. Đến 1973-1974 công việc lại được khởi động lại, đến năm 1975 thì hoàn chỉnh”.

436 Lược ghi phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25, Văn Kiện Đảng toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37-1976, trang 350.

437 “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kĩ thuật, cách mạng văn hóa tư tưởng, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ…”.

438 “Một nước nhỏ, đánh với một đế quốc to, giàu mạnh và ngoan cố, cầm đầu phe đế quốc như Mỹ, [lại] trong điều kiện phe ta mất đoàn kết nghiêm trọng, mà đã giành được thắng lợi hoàn toàn, trọn vẹn và triệt để thì thật lạ lùng. Thắng lợi vĩ đại của ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là một điều hết sức bất ngờ với kẻ thù. Thế giới khâm phục và ngạc nhiên lắm” (Văn Kiện Đảng Toàn Tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 36-1976, trang 334).

439 Phát biểu của Lê Duẩn, Văn Kiện Đảng Toàn Tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37-1976, trang 379.

440 Khẩu hiệu của Tỉnh Nghệ Tĩnh 441 Tỉnh ghép: Nghệ An-Hà Tĩnh.

442 Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý, tác giả của các bài “địa phương ca” được đưa đến Quỳnh Lưu để viết một ca khúc mà cuối thập niên 1970, gần như trên hệ thống phát thanh, ngày nào cũng được cặp song ca tài danh Kiều Hưng-Thu Hiền hát đi hát lại: “Ai đi qua Nghệ Tĩnh / Mà không dừng Quỳnh Lưu / Đời hôm nay rộng mở / Xa bát ngát chân trời / Mảnh vườn xưa ngăn chia / Đèn nhà ai nấy rạng / Ruộng đồng xưa phân chia / Chắn tầm xa phóng khoáng…”.

443 Giáo sư Phạm Như Cương kể: “Tư tưởng làm chủ tập thể… được sử dụng như một rường cột cho mọi quan hệ chính trị và xã hội. Đích thân anh Ba đã có nhiều buổi trình bày về tư tưởng đó ở trường Nguyễn Ái Quốc, ở Học viện Chính trị Trung-Cao…Các ‘cây lý luận’ đương thời đều được phân công đi giảng bài, viết bài để phổ biến tư tưởng đó. Riêng ở Viện Triết học thì chúng tôi không tích cực lắm… Tôi biết rằng hình như Tổng Bí thư không được vui khi thấy một tư tưởng lớn mà ông rất tâm đắc như thế mà tôi và viện triết lại không tích cực hưởng ứng, không chịu triển khai nghiên cứu. Nhưng anh Lê Duẩn là người độ lượng, không có tiểu khí, không hay có thành kiến cá nhân,… nếu có ai không đồng tình với anh thì tuy không vui, nhưng anh không thù ghét, trù dập. Có một lần nhân tôi lên làm việc với anh Trường Chinh, anh Trường Chinh cũng hỏi tôi về khái niệm làm chủ tập thể của đại đội IV. Tôi thưa với anh Trường Chinh rằng về vấn đề này báo chí cũng như các đoàn cán bộ của Trung ương đã trình bày rất nhiều và đầy đủ lắm rồi. Tôi đã trình bày thẳng thắn với anh rằng theo tôi nếu nhìn từ lý luận triết học thì có lẽ những cách giải thích hiện nay vẫn chưa rõ ràng. Anh Trường Chinh gật đầu và im lặng…Tôi hiểu rằng có lẽ chính anh Trường Chinh cũng băn khoăn như tôi” (Đặng Phong, 2008, trang 81-82). Triết gia Trần Đức Thảo cũng từng được ông Lê Duẩn gọi đến để tìm sự chia sẻ “tư tưởng lớn” này. Giáo sư Trần Đức Thảo nhớ lại: Một lần ở Hà Nội, tôi đang đạp xe đi chợ, bỗng có xe ô tô xịch đến bảo tôi lên xe ngay để đi gặp Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Tôi ngạc nhiên lắm, nhưng cũng phải tuân lệnh lên xe đi theo anh em, mà chưa rõ có việc gì. Chiếc xe đạp của tôi có người nhận và hứa sẽ đem về tận nhà cho tôi. Đến nhà Tổng Bí thư, được ông tiếp đón rất trân trọng. Ông nói rằng ông muốn trình bày cho tôi nghe một tư tưởng triết học lớn của ông là tư tưởng làm chủ tập thế. Tôi lễ phép lắng nghe. Sau khoảng 2 giờ liền, ông nói say sưa, tôi chỉ im lặng, không dám hỏi han gì. Sau cùng, ông thấy nói mãi mà chẳng thấy tôi khen chê gì cả, ông phải nhắc tôi: “Tôi biết anh là một nhà triết học lớn, tôi muốn nghe ý kiến của anh”. Tôi bèn trả lời rất chân thành: “Thưa anh tôi thấy khó hiểu quá, xin nói thật là tôi không hiểu”. Ông có vẻ ngạc nhiên, nhưng vẫn từ tốn hỏi lại: “Ô hay! Có thật là anh không hiểu gì không?” Tôi lại thưa: “Thưa anh quả thật là tôi không hiểu gì cả. Sau đó ông thất vọng và bảo tôi đi về”(trang 83).

444 “Bài nói của đồng chí Lê Duẩn tại lớp chính trị Trung cao cấp ngày 13-3-1977 tại trường Nguyễn Ái Quốc”, “Hồ sơ lãnh tụ Lê Duẩn”, lưu trữ tại kho Lưu trữ Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh.

445 Năm 1973, sau chín năm xung phong vào chiến trường miền Nam, bà Nguyễn Thụy Nga từ chiến trường Khu IX ra Bắc và nhận thấy ông Lê Duẩn đã yếu đi rất nhiều. Bà Nga kể: “Khi miền Nam giải phóng anh mổ tiền liệt tuyến, suốt ngày phải mang một túi ni lông bên hông. Sáng nào cũng ba, bốn bác sỹ bu quanh làm thuốc. Vậy mà anh đi hết nơi này, nơi khác để tìm hiểu tình hình” (Hồi ký Nguyễn Thụy Nga, Bên Nhau Trọn Đời, bản thảo viết năm 1998, tr 187-188).

446 Theo ông Trần Việt Phương: Khi Lê Duẩn sang dự Đại hội Đảng cộng sản Liên Xô, Brejenev kể với ông rằng để chuẩn bị cho Đại hội, Liên Xô phải huy động hàng trăm viện nghiên cứu, hàng nghìn nhà khoa học của nhiều lĩnh vực khác nhau.

Lê Duẩn liền nói với Brejenev: “còn tôi, tôi chỉ cần mấy chú thư ký thôi”. Một trợ lý của Lê Duẩn, ông Trần Quỳnh, viết trong hồi ký: “Lê Duẩn là người tự mình suy nghĩ lấy những vấn đề cần giải quyết, chả bao giờ nghe ý kiến của người khác, tự bản thân Lê Duẩn thể nghiệm sự đúng đắn của những những ý kiến đó... Khi nói chuyện tay đôi với tôi, Lê Duẩn thường coi tôi là một đối tượng nghe giùm, để định hình ý nghĩ của mình, chứ không phải là người mà Lê Duẩn cần nghe ý kiến”.

447 Bí thư Trung ương Đảng Khóa VI, viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương 1977-1987.

448 Tổng tập Lê Duẩn, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002, trang 40.

449 Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 25, Lê Duẩn nói: “Stalin vốn là người trung thực, khiêm tốn, đọc tài liệu ta thấy trước đây đồng chí ra đứng tận cổng đón từng đồng chí ủy viên Bộ Chính trị tới họp hoặc tới gặp gỡ đồng chí, thế mà vào cuối đời mình vẫn phạm sai lầm. Vì vậy, cần phải có một cơ cấu bảo đảm làm chủ tập thể, không để một cá nhân nào đó chen vào, trồi lên, độc đoán, chuyên quyền. Thế giới có những kinh nghiệm phức tạp, có hiện tượng đảng là một người. Đảng là tôi, nhà nước là tôi. Ta cần rút kinh nghiệm để tránh” (Phát biểu của Lê Duẩn, Văn Kiện Đảng Toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37-1976, trang 403).

450 Phát biểu trước Hội nghị Trung ương 25, Bí thư Lê Duẩn nói: “Triều Tiên làm rất găng trong việc phát huy sức lao động.

Ta cũng phải làm thế nhưng phải phát huy tính tự giác của nhân dân hơn. Trong làm chủ tập thể, có cái tự nguyện, có cái phải thuyết phục, có cái phải bắt buộc” (Phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25, Văn Kiện Đảng Toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37-1976, tr 361).

451 Phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25, Văn Kiện Đảng Toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37- 1976, trang 403-404.



No comments:

Post a Comment