Sunday, May 26, 2013

Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học - Phần Thứ Hai: Chương 1 - 4

Phần thứ hai
Xung khắc giữa ý thức và vô thức

1. Định nghĩa: Ý thức tự diệt
2. Khai triển những hình thái của ý thức xung khắc
Ý Thức bi tráng
Ý Thức tuyệt vọng
Ý Thức cô lập
Ý Thức khắc khoải
Ý Thức hư vô
Ý Thức khước từ
Ý Thức thoát ly


Mở đầu

Ý thức tự diệt - Thế nào là ý thức xung khắc

Nhưng mi sẽ luôn luôn là kẻ thù nguy hiểm nhất của chính mi
(Aber der schlimmste Feind, dem du begegnen kannst, wirst du immer dir selber sein.)

Nietzsche (Also sprach Zarathustra, Erster Teil, Vom Wege des Schaffenden)

1.

Con người luôn luôn là kẻ thù của con người. Chính tôi là kẻ thù của tôi. Mình chạy trốn kẻ thù có nghĩa là mình chạy trốn mình.

Sự xung khắc giữa ý thức và vô thức đã khiến cho tôi là kẻ thù của chính tôi.

Mình chính là kẻ thù của mình, nên con người chỉ là con người khi con người chạy trốn. Chính sự xung khắc mâu thuẫn ấy, chính sự chạy trốn ấy làm con người trở nên con người.

Con người luôn luôn muốn tiêu diệt kẻ thù; nhưng lúc mình chiến thắng cũng là lúc mình chiến bại, vì chính kẻ thù ấy là mình, chứ không phải kẻ nào khác; như vậy ý thức đã diệt ý thức, tức là ý thức tự diệt.

Ý thức tự diệt là ý thức xung khắc với chính ý thức. Chỉ khi nào có sự xung khắc mâu thuẫn như vậy thì mới nói đến chuyện giải thoát.


2.

Hình ảnh con người là con người chạy trốn. Trốn, lánh, tránh, thoát là hành động của ý thức; hành động (của) ý thức chính ý thức; ý thức chạy trốn ý thức: tôi chạy trốn tôi.

Con người luôn luôn không biết mình là con người chạy trốn. Đó là tội lỗi, vì xúc phạm sự thực; nhưng tội lỗi nặng nhất là con người không biết mình chạy trốn mình. Biết mình chạy trốn vẫn chưa đủ; phải biết mình chạy trốn mình mới là giải thoát.

Biết rằng mình chạy trốn mình mà biết bằng ngôn ngữ, kí hiệu, biểu tượng, kiến thức và lý tính thì vẫn còn xúc phạm sự giải thoát; vì ý thức phải ra ngoài ý thức mới có thể ý thức. Mà ra ngoài là chạy trốn; muốn giải thoát khỏi đau đớn, ý thức phải ý thức tự chạy trốn. Con người muốn biết mình trốn mình thì phải trốn mình; đây là mâu thuẫn lớn nhất của cuộc đời.

Chạy trốn là tội lỗi; chạy trốn cả sự chạy trốn lại còn nguy hiểm hơn; vì mình tự buộc thêm một ảo tưởng khác.

Con thú không chạy trốn nó, chỉ con người là chạy trốn mình. Con người chỉ là con người khi con người chạy trốn mình.

Sự chạy trốn nằm trong hơi thở của con người. Ý thức càng phát triển thì con người càng chạy trốn mãnh liệt hơn. Càng chạy trốn lại càng đau đớn quằn quại hơn nữa; muốn hết đau đớn thì không chạy trốn; và không chạy trốn có nghĩa là không còn là người nữa, vì con người chỉ là con người khi con người chạy trốn.

Muốn giải thoát khỏi đau đớn, con người phải biết mình chạy trốn mình, và phải biết rằng mình không thể nào không chạy trốn mình; biết ở đây có nghĩa là biết trọn người mình, biết bằng trọn người mình, chứ không phải biết bằng một phần hay hai phần của trọn người mình. Phải biết bằng hơi thở chứ không bằng suy nghĩ hay bằng ngôn ngữ.

Ý thức ý thức ý thức: đây là giải thoát khỏi đau đớn. Đừng lầm lẫn “ý thức ý thức ý thức” với “ý thức ý thức về ý thức”.

Câu thứ nhất không có văn phạm; câu thứ hai là một mệnh đề độc lập đúng văn phạm: chủ từ “ý thức”, động từ “ý thức (về)” và túc từ là “ý thức” đứng sau cùng. Câu thứ hai có nghĩa là ý thức tự ý thức về mình.

Ý thức muốn tự ý thức về mình thì ý thức phải ra ngoài mình, ra ngoài có nghĩa là chạy trốn; và chạy trốn là chưa giải thoát.

Câu thứ nhất “ý thức ý thức ý thức” khác câu thứ hai hoàn toàn; câu thứ nhất không có chữ “về”; vì thế, nó có nghĩa là ý thức tự ý thức về mình mà không ra ngoài mình: đây là sự huyền nhiệm, sự bí mật và cũng là sự giải thoát; đây là biên giới ngăn chia tôn giáo và triết học (nếu cứu cánh của tôn giáo là giải thoát khỏi đau đớn và tội lỗi).

Từ hình ảnh con người chạy trốn và từ những đường nét phác hoạ trên, tôi có thể xây dựng một hiện tượng luận và một siêu hình học về sự chạy trốn; nhưng nơi đây tôi xin giới hạn sự thảo luận.


3.

Hình ảnh tượng trưng cho con người chạy trốn là Caïn trong Thánh Kinh (Cựu Ước Kinh) của Ky Tô giáo. Caïn giết em vì bất mãn với sự bất công của Thượng đế; Thượng đế trừng phạt và lưu đày Caïn trở thành “kẻ chạy trốn và kẻ lang thang ở trần gian này” (Genesis 4, 12: “a fugitive and a vagabond shalt thou be in the earth”).

Caïn là hình ảnh tượng trưng nhất cho mỗi người trong chúng ta. Mỗi người chúng ta đều có mầm sát nhân trong lòng; và con người đều là con người chạy trốn và con người lang thang; lang thang, vì chạy trốn; chạy trốn vì giết em; giết em mình chính là giết mình, giết máu thịt của mình. Cũng có thể nói ngược lại: giết em là vì chạy trốn mình; chạy trốn mình là vì ý thức xuất hiện. Ý thức là cô đơn và phân chia. Ý thức trở thành cô đơn và phân chia từ khi ông Adam và bào Eve bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Caïn thừa hưởng tội cha mẹ; con người chịu tội tổ tông.

Tất cả mọi người đều là những con người chạy trốn. Những kẻ chạy trốn nhiều nhất là những nghệ sĩ, những tình nhân, những kẻ mơ mộng, những kẻ phạm tội, những kẻ điên và những người tự tử.

Những người hiện thân bi đát nhất cho sự chạy trốn là Rimbaud, Melville, Nietzsche, Nijinsky, Nerval, Kafka, Van Gogh, Antonin Artaud, Strindberg, Sadegh Hedayat, Hemingway.

Những con người chạy trốn trên là những tâm hồn quằn quại giữa cơn đau ngất trời.

Chính họ là hiện thân của tính chất xung khắc thường xuyên giữa ý thức và vô thức. Sự xung khắc thường xuyên ấy đưa đến sự hủy diệt ý thức nhưng chính vừa lúc ý thức bị hủy diệt thì sự bất diệt vụt xuất hiện. Vừa lúc ý thức tự diệt thì ý thức mới được khai sinh, như chim phượng hoàng sống lại và vỗ cánh bay lên, sau khi được thoát thai từ ánh lửa huyền bí của thần thoại thái cổ.


Chương nhứt
Ý thức bi tráng - Con người và hố thẳm trong tư tưởng Nikos Kazantakis

Người nghệ sĩ bi tráng không phải là người bi quan; hắn chính là người chấp nhận tất cả sự việc khả nghi, chấp nhận ngay cả những sự việc khủng khiếp. Hắn là người theo Dionysos.

Nietzsche (Die Götzen-Dämmerung, 1889)

1.

Mùi thơm những cây chanh trổ hoa quay cuồng người dân hải đảo. Những con lừa bước chậm chạp trên lối mòn hay triền núi. Vài ba con dê cột bên sân nhà; bụi bay đầy đường. Những đống gạch vụn, những đền đài sụp đổ. Mặt trời. Đá. Mây trắng. Biển. Những trái cây. Gió biển mặn nồng, bụi đá thơm ngát, những người ăn mày rách rưới, những con gà tây lủi trốn qua kẹt nhà.

Nghèo nàn, nóng bức, khô cằn, nhiều trái cây, nhiều đứa con nít dơ bẩn chạy rong giữa chợ, những trái nho khô, những chùm nho tươi, đôi má đỏ hồng của cô gái nhà quê, nụ cười thần thoại của cụ già râu trắng, những đồi đá vôi chôn vùi nền văn minh thượng cổ của Địa trung hải, nằm giữa Âu châu, Phi châu và Á châu.

Đó là đảo Crète, thuộc đất Hy lạp, quê hương của Nikos Kazantzakis, văn sĩ, thi sĩ, triết gia, tư tưởng gia, kịch sĩ, phê bình gia, dịch giả, chính trị gia. Nikos Kazantzakis là nhà văn hoá nổi tiếng nhất của Hy lạp thế kỷ hai mươi.

Quê hương ông là nơi phát sinh ra nền văn minh Tây phương, là một hải đảo muôn đời đón gió từ mười phương thổi về; người con trai Hy lạp ấy đã lớn lên giữa những cơn gió thịnh nộ thổi từ những lục địa xa xôi, giữa những tiếng sóng cuồng loạn của đại dương, dưới một bầu trời xanh lơ đầy mây giang hồ và những cánh hải âu đen mướt.

Những buổi chiều trên bãi vắng, lúc hãy còn trẻ, không biết Nikos Kazantzakis đã nghĩ những gì, khi ngắm nhìn những cánh buồm trắng xuôi gió thấp thoáng bên kia chân trời?

Để rồi đi vào đời, Nikos Kazantzakis trở thành con người nghệ sĩ điêu đứng, sống hốt hoảng với ý thức phân tán trước sự sụp đổ của con người và nền văn minh hiện đại; suốt đời, Nikos Kazantzakis chỉ là một cánh buồm say gió, trôi nổi bập bềnh trên đại dương của Hư vô, khát khao hải đảo quê hương, nhưng hải đảo quê hương ấy cũng chỉ là thần thoại, bởi vì quê hương không phải là nơi mà mình đã chào đời và con người vẫn nhớ quê hương đang khi mình ở ngay nơi quê hương của mình; con người vẫn cảm thấy hoàn toàn xa lạ nơi mình chào đời; có lẽ phải chăng lúc mình thở hơi cuối cùng là lúc quê hương mới bắt đầu xuất hiện?


2.

Trong quyển Letter au Gréco, Nikos Kazantzakis viết một câu văn rất giản dị mà ít người đọc để ý, ý nghĩa thâm trầm phong phú vô cùng:

Hãy cứng rắn, kiên nhẫn, chịu khó… Hãy khinh bỉ hạnh phúc…”

Những câu văn hay lời nói cũng như những hạt giống, phải gieo đúng nơi, đúng lúc thì mới có thể trổ hoa đơm trái.

Chỉ vào giờ đó, phút đó, với tâm trạng đó, tôi mới thực sự nhận ra tất cả ý nghĩa kỳ lạ trong những lời nói câu văn mà vào những lúc khác tôi chỉ thấy nó tầm thường nhạt nhẽo.

Hãy khinh bỉ hạnh phúc…”

Chỉ có Nikos Kazantzakis là mới nói lời trên với nỗi lòng chua xót bi tráng.

Hãy khinh bỉ hạnh phúc…”

Tất cả tư tưởng và tác phẩm của Nikos Kazantzakis chỉ nói lên một câu nầy thôi.

Câu văn này chẳng những có nghĩa là khinh bỉ sự hạnh phúc, mà còn có nghĩa là khinh bỉ cả sự khinh bỉ hạnh phúc, vì không có sự hạnh phúc! Hạnh phúc chỉ là một danh từ rỗng, dùng để nói đến một cái gì không có thực ở đời này.

Tại sao “hãy khinh bỉ”?

Tiếng “hãy” là tiếng kêu gọi, lời thúc giục hay ra lệnh…

Tiếng “hãy” là tiếng gọi đứng dậy, tiếng kêu bước chân, tiếng thúc giục lên đường, tiếng ra lệnh phóng chạy…

Chúng ta tự tạo ra một thế giới ảo tưởng, rồi chui vào đó mà ngủ. Con người hiện nay đang nằm ngủ; con người thế kỷ XX đang còn ngủ, chưa tỉnh thức; chúng ta đang chết, nguy hiểm nhất là chúng ta không biết rằng chúng ta đang chết; chúng ta sống bạc nhược; đi đứng mệt mỏi, hết hăng hái thiết tha; chỉ nhìn lại đằng sau, tiếc thương quá khứ; mỗi buổi sáng thức dậy, chúng ta bị lôi vào một cuộc sống mà chúng ta không biết đi về đâu; chúng ta chỉ còn những cử chỉ không hồn; tất cả chỉ là phản ứng như một cái máy tự động; chúng ta nhìn sự vật chung quanh với đôi mắt thản nhiên lạnh nhạt; không có gì có thể làm chúng ta ngạc nhiên nữa; tất cả chỉ là tổng số những thói quen.

Chúng ta sống trong hiện tại mà đầu óc cứ bị chìm ứ xuống vũng lầy của quá khứ; chúng ta vuốt ve dĩ vãng vàng son; chúng ta chạy trốn hiện tại; chúng ta vuốt ve bản ngã nhỏ bé bằng cách gia nhập những đoàn thể hay những công tác vĩ đại; chúng ta đồng hoá với một sự vật bên ngoài để tâng bốc lòng quan trọng; chúng ta không dám sống, mà chúng ta cũng không dám chết; chúng ta không dám đi, mà cũng không dám đứng; chúng ta không dám nói mà cũng không dám yên lặng…

Chúng ta thích phàn nàn, than thở, thích nói “chán quá, cô đơn quá, khổ quá," mà thực sự chúng ta không hoàn toàn cảm thấy thế; những lời nói ấy chỉ là một mớ thói quen cần thiết để chúng ta bám vào những làn khói thuốc; sự thực thì chúng ta đang chết trong đời sống.

Chúng ta ăn mà không biết mình đang ăn, uống mà không biết mình đang uống; chúng ta thấy mình nằm mộng trong giấc mộng. Mộng của mộng!

Mỗi lời nói của chúng ta là những lời lặp lại vô ý thức, mỗi lời phê phán của chúng ta là những lời nói bâng quơ khờ khệch của một kẻ bước đi trong khi ngủ.

Tiếng “hãy” là một gáo nước lạnh đổ vào mặt chúng ta, là một cái tát tai nẩy lửa, là cái đạp chân tống vào người để chúng ta thức dậy, để chúng ta đứng dậy, rồi chạy… Đứng dậy mà chạy. Thôi đủ rồi, ngủ đã nhiều rồi, chết đã nhiều rồi. Chúng ta hãy ào chạy, xô nhau chạy… chạy rồi nhảy múa. Nhảy múa điên cuồng như bầy mọi da đỏ. Nhảy múa trên hoả diệm sơn.

Cười, hét, tru, tréo, la, kêu, rú, réo và cứ tiếp tục nhảy múa - Nhảy như điên, như loạn. Nhảy như Nijinsky.

Cứ tiếp tục nhảy múa đi.

Rồi chết.

Chứ đừng nằm dài than thở, đừng khóc lóc, đừng chán nản. Đã hết cô độc, hết rồi cô đơn, hết rồi phi lý, hết rồi hiện sinh khắc khoải, hết rồi hư vô, hết rồi đau khổ. Bản nhạc ấy cũ quá rồi, cứ hát đi hát lại hoài. Tất cả đều lường gạt. Tất cả đều giả dối. TẤT CẢ ĐỀU XÔNG LÊN MÙI CHẾT.

Hãy cười rú lên như điên và tiếp tục nhảy múa.

Nhảy múa như bầy mọi Phi châu, nhảy múa như bầy trẻ con, chứ đừng nhảy múa như những xác chết ở phòng khiêu vũ tại Sài gòn.

“Hãy khinh bỉ” là gì? Thế nào là “khinh bỉ”?

Sự khinh bỉ là một điều thiêng liêng.

Sự khinh bỉ lên ngôi thượng đế.

Chúng ta hãy tôn thờ sự khinh bỉ.

Khinh bỉ, khinh bạc, khinh dễ, khinh khi, khinh khỉnh, khinh mạn, khinh miệt, khinh suất, khinh thị, khinh thường, kiêu căng, kiêu ngạo, kiêu dũng, kiêu hãnh, phách lối, ngạo mạn, xấc xược. Tất cả những chữ này là những ĐỨC TÍNH thiêng liêng của những con người dám sống và dám chết.

Chúng ta hãy khinh bỉ tất cả mọi sự.

Chúng ta hãy khinh bỉ cả sự khinh bỉ.

Nghĩa là CHÚNG TA HÃY KHINH BỈ CẢ CHÚNG TA.

Khinh bỉ là đức tính đầu tiên và cuối cùng của nhân loại: khinh bỉ sẽ là sức sống làm lại cuộc HỒI SINH NHÂN LOẠI.

Trái đất này sẽ tan nát, thế giới này sẽ sụp đổ, nhân loại sẽ bị tiêu diệt, nếu không còn những kẻ khinh bỉ trên trần gian này.

Chúng ta hãy khinh bỉ tất cả mọi giá trị: chúng ta hãy khinh bỉ tất cả những gì cao siêu nhất đời này; chúng ta hãy khinh bỉ tất cả những vĩ nhân, tất cả những thiên tài; chúng ta hãy khinh bỉ những kẻ vị tha, bác ái, nhân đạo. Chúng ta hãy khinh bỉ những kẻ xây dựng; đồng thời, chúng ta hãy khinh bỉ những kẻ phá hoại. Chúng ta hãy khinh bỉ những nhà đạo đức và khinh bỉ những kẻ chống đạo đức.

Khinh bỉ hết tất cả.

Và quan trọng nhất là chúng ta phải khinh bỉ chính bản ngã, bản thân chúng ta; hãy khinh bỉ đời sống chúng ta, hãy khinh bỉ lời nói chúng ta, hãy khinh bỉ sự im lặng của chúng ta, hãy khinh bỉ lòng nhân đạo của chúng ta, lòng yêu người của chúng ta, lòng ái quốc, lòng xây dựng xã hội, tình thương, lòng tương thân tương ái, lòng khiêm tốn nhún nhường, sự cao thượng, đức danh dự.

Hãy khinh bỉ tình yêu, hãy khinh bỉ tất cả những người con gái, hãy khinh bỉ văn chương, triết học, hãy khinh bỉ những thi sĩ, hãy khinh bỉ những quyển tiểu thuyết, những bài khảo luận (như bài này).

Hãy khinh bỉ Nikos Kazantzakis, Henry Miller.

Hãy khinh bỉ Heidegger, Camus, Nguyễn Du. Tóm lại HÃY KHINH BỈ HẠNH PHÚC. Thế nào là “hãy khinh bỉ hạnh phúc”?

Sự khinh bỉ chính là sự hạnh phúc: vì thế, chúng ta cần phải khinh bỉ cả sự khinh bỉ ấy nữa! Sự khinh bỉ phải đi đến cùng tận, để rồi biến mất luôn mà đi vào cõi hư không của vạn vật. Lúc bấy giờ, tất cả đều huyền bí (huyền chi hựu huyền), không còn phân biệt đối đãi, sắc tức thị không, nói như Heidegger thì Sein tức là Nichts và sự KHINH BỈ CHÍNH LÀ SỰ KÍNH TRỌNG.

Hạnh phúc là gì?

Hạnh phúc là nhà điên. Hạnh phúc là chết trong khi còn có thể sống được. Hạnh phúc là đầu hàng trước xã hội. Hạnh phúc là sự chạy trốn. Hạnh phúc là đánh mất cá tính độc đáo của mình. Hạnh phúc là đứng lại, không dám nhảy tới, phóng tới. (Heidegger: Entwurf).

Hạnh phúc là ảo tưởng của ảo tưởng, mộng của mộng. Hạnh phúc là luân hồi, là hoả ngục nơi cuộc sống này.

Khi chúng ta còn bé nhỏ, chúng ta không đau khổ, không hạnh phúc; tâm hồn ngây thơ hồn nhiên như con chim hót trên cành, lòng trẻ thơ là mặt hồ trong suốt không gợn sóng, in hình mây trời trắng bạch; bầu trời xanh biếc rọi trọn vẹn vào hồn, nhưng thế rồi lúc chúng ta vừa lớn khôn, lúc mà ý thức bắt đầu trưởng thành thì lúc bấy giờ mặt hồ đã nổi sóng tơi bời, bão tố vụt bừng dậy hãi hùng.

Ý thức là hạnh phúc, mà ý thức lại chạy đi tìm hạnh phúc, thế là ý thức trở nên không hạnh phúc. Ý thức đi tìm hạnh phúc, mà càng đi tìm lại càng tìm không được, vì hạnh phúc không ở ngoài ý thức vì hạnh phúc là ý thức, ý thức chạy đi tìm ý thức, mình chạy đi tìm mình; mình chạy đi tìm mình thì không thể nào tìm được.

Khinh bỉ hạnh phúc có nghĩa là không chạy đi tìm nữa. Khinh bỉ hạnh phúc có nghĩa là MÌNH ĐỨNG LẠI NHÌN MÌNH. Khi mình nhìn lại mình thì mình sẽ gặp lại mình. Tìm gặp lại mình thì tìm gặp cái mình đang tìm. Như thế mình chỉ có thể tìm được là khi mình không còn chạy đi tìm nữa. Đó là chân lý, mặc dù mâu thuẫn, khó hiểu nhưng mầu nhiệm vô cùng.

“Hãy khinh bỉ hạnh phúc”. Đây là một trong những chân lý cao siêu của Nikos Kazantzakis.

Câu này có thể giúp ta nhìn ra chân lý mầu nhiệm của cuộc đời.

Bằng cách nào?

Bằng cách thực hiện câu “hãy khinh bỉ hạnh phúc” không phải bằng lời nói, mà bằng tất cả bản thân mình, bằng cả đời sống mình, bằng cả máu lệ tinh thành; đánh cả một ván đời để đổi lấy câu “hãy khinh bỉ hạnh phúc”, như trường hợp Nietzsche hay Van Gogh hay Rimbaud hay Nikos Kazantzakis, hay một cách tuyệt đối tận cùng như Phật Thích Ca, như chúa Jésus, như François d’Assise, như Henry Miller…


3.

Kazantzakis đã từng chịu ảnh hưởng sâu đậm của Nietzsche. Nikos Kazantzakis và Nietzsche giống nhau như con giống cha. Kazantzakis tôn thờ Nietzsche như con người tiền sử tôn thờ mặt trời. Đời Nietzsche và đời Kazantzakis là cả một chuỗi dài chấp nhận và chối bỏ.

Kazantzakis chấp nhận Nietzsche, rồi chối bỏ Nietzsche. Kazantzakis chấp nhận Chúa Jésus, rồi chối bỏ Chúa Jésus. Kazantzakis chấp nhận đức Phật, rồi chối bỏ đức Phật. Kazantzakis chấp nhận Lénine, rồi chối bỏ Lénine.

Kazantzakis chấp nhận cuộc đời, rồi chối bỏ cuộc đời mà đi vào cõi chết… Tiến trình biện chứng vẫn ngự trị trần gian.

Chấp nhận tức là hạnh phúc; chối bỏ sự chấp nhận ấy có nghĩa là khinh bỉ hạnh phúc. Khinh bỉ sự hạnh phúc là nhìn thẳng vào sự chết, không chạy trốn cái chết mà lại phỉ nhổ vào mặt sự chết.

Đó là tất cả sự vĩ đại của Nikos Kazantzakis, tất cả nỗi bi tráng cực độ của người con trai đất Hy lạp, quê hương của Homère, Eschyle, Sophocle, Euripide.

Vào những khoảnh khắc khủng khiếp và bất ngờ, một luồng ánh sáng vụt loé qua ý thức tôi: tất cả những cái ấy chỉ là một trò chơi tàn bạo và phù phiếm, vô thuỷ vô chung, hoàn toàn không có ý nghĩa gì cả” (Nikos Kazantzakis, Ascèse trang 47 – 48).

Cuộc đời chỉ là một trò chơi.

Thiên đàng hay địa ngục gì cũng nằm trong trò chơi ấy.

Tất cả đều là một trò đùa, một trò chơi tàn bạo và phù phiếm. Tôi bị lôi cuốn vào trò chơi ấy, dù muốn hay không.

Nhìn đời với đôi mắt của một kẻ nằm trong cuộc chơi, đó là ý thức đầu tiên của những tâm hồn bi tráng.

Cuộc đời chỉ là một trò chơi tàn bạo và vô ích, không có sự bắt đầu, không có sự chấm dứt, hoàn toàn vô nghĩa.

Với ý thức như thế, tôi sẽ không còn tạo cho mình những ảo tưởng xa xôi, những bến bờ hạnh phúc mà tôi không bao giờ đạt đến.

Thiên đàng chỉ nằm trong đầu, thiên đàng không phải ở trên bầu trời xanh lơ kia. Thiên đàng chỉ nằm trong cuộc chơi tàn bạo của giòng đời.

Con người nhào mình vào cuộc chơi mà hắn biết rằng phù phiếm và tàn bạo; nhưng vì hắn là người, hắn không thể thoát ra ngoài vòng cuộc chơi ấy.

Đó là tâm thức bi đát của con người; niềm bi đát ấy trở thành bi tráng, khi con người nhìn thẳng vào sự thực và không nuôi những ảo tưởng, khi con người yêu trò chơi ấy và dự vào cuộc chơi ấy với tất cả mê đắm say sưa của đời mình, mặc dù biết rằng cuộc chơi ấy là phù phiếm, tàn bạo và vô nghĩa.

Biết rằng cuộc đời là vô nghĩa, nhưng vẫn sống một cách say sưa. Biết rằng việc làm vô ích nhưng vẫn làm một cách hăng say. Biết rằng trò chơi ấy nguy hiểm, nhưng vẫn lăn vào trò chơi ấy với trọn vẹn hồn nhiên của đời mình. Đó mới là sức sống bi tráng của con người.

“Điều tôi quan tâm không là con người, không phải là mặt đất, không phải là bầu trời, mà là ngọn lửa thiêu đốt con người, mặt đất và bầu trời” (Nikos Kazantzakis, Toda – Raba, trang 113).

Ngọn lửa ấy là gì? Phải chăng là SỨC SỐNG BI TRÁNG của vũ trụ, của trần gian, của con người?

Sức sống bi tráng là ngọn lửa thiêu đốt cả vũ trụ và con người. Sức sống bi tráng là hơi thở của Thần linh, của Hư vô, của Đại Ngã và Thần Ngã.

Nietzsche đã thổi sức sống bi tráng vào tâm hồn Nikos Kazantzakis:

Nietzsche đã làm phong phú tâm hồn tôi bằng cách cung cấp cho tôi những vũ khí để lăn vào những cuộc chiến đấu mới; chính Nietzsche đã dạy tôi biến đổi nỗi đau khổ, niềm cay đắng và lòng lưỡng lự thành ra sự kiêu hãnh” (Nikos Kazantzakis), và sức sống bi tráng ấy đã thiêu đốt cuộc đời Nikos Kazantzakis; ông chạy quanh quẩn suốt đời trong những nẻo đường hư vô mà vẫn giữ trong tim một niềm kiêu hãnh vĩ đại của con người bị diệt, nhưng vẫn không chịu thua, của một kẻ đau khổ quằn quại, nhưng vẫn từ chối thiên đàng.


4.

Trong quyển tiểu thuyết Alexis Zorba, Nikos Kazantzakis đưa ra hai nhân vật trái ngược hẳn nhau: một người là trí thức, người kia là công nhân. Anh công nhân tên là Alexis Zorba. Người trí thức ấy chỉ biết sống với sách vở; đầu óc đầy ứ những tư tưởng trừu tượng; trái lại Alexis Zorba thì không đọc sách báo gì cả, đầu óc Alexis Zorba chứa đầy những ý nghĩ thực tiễn hay là không chứa một ý nghĩ nào cả, hoàn toàn trống rỗng thanh tịnh. Kẻ tri thức kia quên sống, hắn đi bơ phờ trong thế giới tư tưởng, suốt ngày hắn cứ bận bịu với triết lý này, triết học kia. Còn Alexis Zorba sống mãnh liệt và trọn vẹn với đời mình, Alexis Zorba chỉ sống chứ không suy nghĩ; trái lại, kẻ trí thức chỉ nghĩ chứ không sống. Alexis Zorba hưởng thụ cuộc đời một cách say đắm triền miên; còn kẻ trí thức kia chỉ là một xác không hồn bước đi hững hờ trong cuộc đời. Alexis Zorba hoàn toàn là đứa con của lòng đất; Alexis Zorba cúi quỳ hôn lòng đất: còn kẻ trí thức kia chỉ biết chạy đuổi theo một ốc đảo ở sa mạc và suốt đời không bao giờ tìm được.

Alexis Zorba là con người hoàn toàn hồn nhiên giản dị, chỉ biết ăn, uống, ngủ, đi đứng, làm ái tình, ca hát, nhảy múa, say sưa làm việc. Còn kẻ trí thức kia quên ăn, quên uống, quên ngủ, quên đi đứng, không dám làm ái tình, không biết ca hát, không nhảy múa và chỉ làm việc một cách mệt nhọc chán chường.

Kẻ trí thức kia cẩn thận, dè dặt, giữ gìn, chín chắn, tâm hồn đầy mặc cảm. Alexis Zorba dám làm tất cả mọi sự, không dè dặt, không giữ gìn; Alexis Zorba lăn vào cuộc đời như một chiến sĩ kiêu dũng lăn vào trận địa; Alexis Zorba nhảy trên những xác chết của quá khứ, say sưa hò hét trong cuộc sống điên cuồng hiện tại.

Nikos Kazantzakis đã dựng hình ảnh Alexis Zorba giữa nền văn minh trí thức thời đại, một hình ảnh hiên ngang bất khuất sống động, tượng trưng cho sự phục hồi sinh lực của truyền thống Tây phương ở vào chặng cùng đổ vỡ.

Truyền thống tư tưởng tây phương đang bị lôi cuốn trong sự độc tôn của lý trí; lý trí đồng nghĩa với ảo tưởng, lý trí chặn đứng sức sống tràn lan của con người, lý trí phá hủy hồn thơ lai láng của vũ trụ, lý trí chỉ biết chia xén, phân hai, phân biệt, phân tích, lý trí tạo ra ảo tưởng của ảo tưởng, rồi sau cùng chính lý trí quay lại chống lý trí; đó là mối mâu thuẫn vĩ đại không thể nào vượt qua được, nếu con người vẫn nằm ngủ trong giấc mộng của giấc mộng.

Alexis Zorba của Nikos Kazantzakis là hiện thân của sự chống đối lý trí; chống đối lý trí không có nghĩa là ca ngợi sự ngu muội; mà là ngược lại thế, bởi chính lý trí là sự ngu muội, một thứ ngu muội trá hình, và vì trá hình, sự ngu muội ấy trở nguy hiểm vô cùng.

Alexis Zorba là một kẻ tỉnh ngộ: nói theo danh từ Phật giáo Thiền tông thì Alexis Zorba đã đi đến Satori (Ngộ). Alexis Zorba là con người lý tưởng mà Kazantzakis muốn đạt tới.

Nikos Kazantzakis từ bỏ thiên đàng để trở về quì hôn lòng đất mến yêu. Nikos Kazantzakis chối từ tất cả những ảo tưởng, kẻ cả ảo tưởng về sự chối từ! Nikos Kazantzakis đi tìm một giải đất mới nhưng giải đất ấy không nằm trong không gian, bởi vì: “giải đất mới chỉ có trong lòng người” (Nikos Kazantzakis, Ascèse, trang 56).

Ta phải quay trở về tìm giải đất mới ấy trong lòng người, ta phải đi tìm Tịnh độ trong Tâm; vì Tâm chính là Tịnh độ.

Bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, một cách rộng lượng và không hy vọng”.

(Nikos Kazantzakis, Ascèse, trang 56).

Bổn phận mi là…”

Bổn phận, nghĩa vụ, chức phận…

Bổn phận mi là…

Phận mình là…

Phận là điều mình không thể không làm; phận là một việc tất yếu, một sự bắt buộc, một việc quy định.

Bổn phận nằm trong thân phận làm người của mình. Bổn phận có thể nói là xác định tính chất của thân phận con người. Bổn phận là một điều bắt buộc, một điều kiện tất yếu làm con người trở thành con người. Chấp nhận bổn phận là chấp nhận sự thực không thể tránh. Từ chối bổn phận là chạy trốn. Chạy trốn cái gì?

Chạy trốn mình.

Chạy trốn chất tính của mình là con người.

Con người dính liền với thân phận con người, bổn phận là thái độ sống riêng đưa con người trở về con người. Bổn phận có tính cách độc đáo riêng biệt; phận là phận của riêng tôi, của mình tôi nên gọi là phận mình, tức là bổn phận; phận là một sự bắt buộc; phận có nghĩa là chức vị của người; nói rộng hơn, phận chính là người vì chức vị của người (phận) và người chỉ là một; người không có chức vị của người không thể gọi là người, không thành ra người. Nói đến người là mặc nhiên đã nói cái điều làm cho con người trở thành người, tức là phận, nói rõ hơn là bổn phận.

Phận là một điều tất nhiên, một sự đã qui định từ khi tôi mở mắt chào đời và qui định trọn vẹn từ khi ý thức tôi đã trưởng thành.

Mỗi người tự nhận phận mình (bổn phận).

Người khác không có quyền bắt buộc tôi làm bổn phận tôi, vì bổn phận đã là một sự bắt buộc của tôi đối với chính tôi. Sự bắt buộc của người khác xâm phạm đến chức vị của người tôi; chính sự bắt buộc ấy thay thế sự bắt buộc của riêng tôi, vì thế người khác đã đánh mất chức vị của người tôi, vì chức vị của người tôi là sự bắt buộc của riêng tôi đối với tôi.

Người khác bắt buộc tôi làm bổn phận tôi, nghĩa là người khác đã làm tôi đánh mất bổn phận tôi rồi!

Ái quốc hay không ái quốc, đó là bổn phận riêng tôi. Người khác không được quyền bắt buộc tôi ái quốc và nói rằng như thế mới là bổn phận tôi; khi có sự tham dự trực tiếp của người khác vào bổn phận tôi thì tôi đã xa lìa bổn phận rồi, vì bổn phận là phận của riêng mình tôi.

Ái quốc, hy sinh, phụng sự xã hội, vâng lời cha mẹ, hiếu thảo, trung thành, vân vân; người khác không được quyền nói những thứ này là bổn phận của tôi. Nói đến bổn phận là nói đến sự cô đơn tuyệt đối của tôi, của riêng tôi đối với tôi; vì thế, người khác đứng ngoài vòng và chẳng có liên hệ gì với tôi cả; người khác chỉ có liên hệ với tôi là sau khi tôi đã nhìn lại bổn phận (hay là không nhìn lại thì cũng thế).

Tôi nói với tôi như sau:

bổn phận của mi là…”

Tôi không thể nói như vầy với người khác:

bổn phận của anh là…”

Nói như thế là trực tiếp phá hủy bổn phận của người khác, là xâm phạm chức vị làm người của người khác.

Nikos Kazantzakis tự nói với mình rằng:

bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm…”

(Nikos Kazantzakis, Ascèse, trang 56).

Nikos Kazantzakis không nói:

“bổn phận của mi là ái quốc, thương người, phụng sự, làm việc, vâng lời, giúp đỡ, hay trung thành vân vân…”

Nikos Kazantzakis lại nói:

bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm”

thế là Kazantzakis đã đập vào trung tâm điểm của ý thức con người; lên đường đi đến hố thẳm là bổn phận quan trọng nhất của tôi; tất cả những thứ khác chỉ là phụ thuộc.

bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm”.

Đó là ý thức tiên khởi mà tôi phải nhìn nhận cho riêng tôi; bổn phận của tôi là thế, vì vậy, tôi phải làm bổn phận ấy cho riêng tôi; chính tôi phải làm tròn bổn phận ấy. Làm tròn cái gì?

Làm tròn bổn - phận – lên - đường – đi - đến- hố - thẳm.

Không làm tròn bổn phận này là chạy trốn; không làm tròn bổn phận này là không xứng đáng được gọi là người; không làm tròn bổn phận này là đánh mất chức vị làm người, là tự dối, tự lường gạt mình.

Người chỉ là người, khi người làm bổn phận; bổn phận chỉ là bổn phận khi bổn phận lên đường đi đến hố thẳm.

Sự kiện lên đường đi đến hố thẳm là một thực tại; từ chối thực tại là nuôi ảo tưởng, là tự đánh lừa.

Người dính liền với việc lên đường đi đến hố thẳm. Heidegger có từ ngữ “Sein zum Tode” (Tính hướng tử hay hướng tử tính; Pháp gọi là “L‘être-pour-la-mort”). Ta bắt chước Heidegger mà đặt từ ngữ mới cho ý nghĩa câu văn trên của Kazantzakis là “Sein-zum-Abgrund” (tính hướng huyệt hay hướng huyệt tính; dịch ra Pháp ngữ là: “l‘être-pour-l‘abïme”.

Người vừa mới chào đời là đã lên đường đi đến hố thẳm.

Người thực sự người là lên đường đi đến hố thẳm; người không thực sự người là kẻ chạy trốn vào cuộc sống thường nhật của thiên hạ (“ le On de la banalité quotidienne”) và không chịu nhận mình để lên đường đi đến hố thẳm. Việc lên đường đi đến hố thẳm là một sự bắt buộc, một sự thực bắt buộc; nhưng sự bắt buộc ấy trở thành sự tự do khi tôi bắt buộc cho riêng tôi.

Nếu để người khác bắt buộc tôi hay nếu sự bắt buộc ấy xảy đến tôi ngoài ý muốn của tôi hay nếu tôi không tự bắt buộc cho riêng tôi, thì sự bắt buộc ấy trở thành sợi dây trói buộc tôi lại, quăng tôi xuống hố thẳm như quăng một con vật, làm tôi mất sự tự do và đánh mất chức vị làm người của tôi.

bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm

Khi tôi chịu làm bổn phận lên đường đi đến hố thẳm thì tôi trở thành con người tự do, sự tự do này mới đúng nghĩa là tự do thực sự, vì dù có ở trong tù, tôi vẫn có thể tự do; và những con người sống bên ngoài kia, họ tưởng là họ tự do, nhưng thực ra, họ bị nhốt bưng bít trong cuộc sống thường nhật nhạt nhẽo của thiên hạ “le On de la banalité quotidienne”; (Heidegger gọi là “Das Man”).

Tự do của tôi là tự do thực sự; bởi vì tôi biết rằng tôi lên đường đi đến hố thẳm cho nên tôi tự do, tôi chỉ được tự do thực sự khi sự tự do của tôi là tự do trước hố thẳm, bắt chước từ ngữ của Heidegger mà gọi là: “Freiheit zum Abgrund” (Heidegger: Freiheit zum Tode”).

bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm”.

Nikos Kazantzakis tự nói như thế.

Nhưng lên đường đi đến hố thẳm bằng cách nào?

Nikos Kazantzakis tự nói thêm:

“một cách im lặng...”

Như thế nghĩa là gì?

bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng…

Im lặng là không nói, không nói là không dùng lời, không diễn tả, không bào chữa, không bênh vực.

Im lặng chẳng những có nghĩa là không nói, mà còn có nghĩa là không không-nói.

Im lặng ở đây không chỉ có nghĩa là im lặng suông, vì im lặng ở đây có nghĩa là im lặng luôn cả sự im lặng!

Im lặng luôn cả sự im lặng là không còn tiếng nói, cũng không còn tư tưởng, không còn suy nghĩ, không còn trí nhớ, nói gọn lại là tiến trình ý thức ngừng lại.

Im lặng có nghĩa là sự im lặng ý thức hay là ý thức im lặng.

bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng…

Nikos Kazantzakis nói thêm:

“không hy vọng…”

Tôi lên đường đi đến hố thẳm một cách im lặng, và không hy vọng.

Đó là điều hiển nhiên.

Im lặng mà còn có hy vọng, thì chưa hẳn là im lặng.

Hy vọng nuôi ảo tưởng, ảo tưởng trong thời gian.

Còn hy vọng là còn lường gạt, là còn ý thức; ý thức lường gạt ý thức bằng cách phóng tới đằng trước nhờ hy vọng; còn hy vọng thì chưa giải thoát; hy vọng là triển hạn; triển hạn là hạnh phúc; khinh bỉ hạnh phúc là không hy vọng, là mở đường giải thoát; hy vọng triển hạn và chận đứng sự giải thoát: hy vọng giải thoát là chưa được giải thoát.

Đến bao giờ mới được giải thoát?

Chỉ đến lúc không còn hy vọng giải thoát, ta mới được giải thoát. Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ…

Chỉ đến lúc tôi không còn mộng sự tỉnh thức, tôi mới thức tỉnh.

bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, không hy vọng…

Nikos Kazantzakis còn nói thêm:

một cách rộng lượng”.

Tôi đi đến hố thẳm, một cách im lặng, không hy vọng và một cách rộng lượng.

Rộng lượng hay nhân từ cũng gần nghĩa với nhau.

Rộng lượng ở đây có nghĩa là rộng lượng mà không có đối tượng, vì tôi đang lên đường đi đến hố thẳm. Rộng lượng là mối tình bao la mênh mông; rộng lượng là xoá bỏ sự cố chấp, rộng lượng có đối tượng hãy còn là rộng lượng có sự cố chấp; tôi rộng lượng với người khác nghĩa là tôi còn chấp vào chính sự rộng lượng ấy, nghĩa là tôi còn phân biệt người khác với tôi và sự rộng lượng của tôi đối với người khác là một sự phân biệt ngụy trang. Rộng lượng còn phân biệt tôi với người khác thì vẫn chưa là rộng lượng.

Rộng lượng đồng nghĩa với sự không phân biệt; rộng lượng không phân biệt mới thực sự là rộng lượng; như thế, rộng lượng không có mục đích; rộng lượng mà có mục đích, dù mục đích ấy là sự rộng lượng thuần túy thì rộng lượng chưa thuần tuý là rộng lượng.

Rộng lượng chính là sự im lặng; rộng lượng chính là không hy vọng. Rộng lượng mà còn hy vọng thì chưa phải rộng lượng; ý thức rằng tôi rộng lượng thì chưa phải là rộng lượng; rộng lượng đồng nghĩa sự im lặng ý thức.

Con đường đi đến hố thẳm gồm có 3 lối.
  1. trí và tình: im lặng
  2. trí: không hy vọng
  3. tình: rộng lượng

Đó là cố gắng phân chia cho dễ hiểu; nói một cách tuyệt đối thì con đường đi đến hố thẳm không có lối, vì còn có lối là còn hy vọng, mà còn hy vọng là không thể rộng lượng, vì rộng lượng còn hy vọng là rộng lượng chưa trọn vẹn và ý thức chưa im lặng.

bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, không hy vọng, một cách rộng lượng”.

Hố thẳm ở đây không phải là địa điểm hay mục đích. Không phải hố thẳm ở một nơi chốn nào đó và bổn phận của tôi là đi đến hố thẳm ấy.

Hố thẳm ở đây không nằm trong không gian và sự-lên-đường-đi-đến không nằm trong thời gian; bởi vì chính việc-lên-đường-đi là hố thẳm, và hố thẳm chính là sự im lặng, là sự rộng lượng, và không hy vọng. Phương tiện (một cách im lặng, không hy vọng, một cách rộng lượng) chính là cứu cánh (hố thẳm), hành động (sự lên đường đi đến) chính là mục đích (hố thẳm). Phương tiện là cứu cánh; hành động là mục đích.

Chúng ta hãy lập lại trọn câu văn của Nikos Kazantzakis: “giải đất mới chỉ có trong lòng người… bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, không hy vọng, một cách rộng lượng” (Ascèse, trang 56).

Như thế, tôi thấy rõ nghĩa như vầy:
  • giải đất mới là lòng người;
  • lòng người là hố thẳm
  • đi tìm giải đất mới là đi tìm lòng người;
  • lòng người là lòng mình;
  • bổn phận mình là đi tìm lòng mình;
  • tìm lòng mình là lên đường đi đến hố thẳm;
  • sự đi tìm ấy chính là lòng mình;
  • lòng mình chỉ là lòng mình, khi lòng mình im lặng, rộng lượng, không hy vọng;
  • lòng mình là giải đất mới;
  • giải đất mới là sự giải thoát.
giải đất mới chỉ có trong lòng người… bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, không hy vọng, một cách rộng lượng” (Nikos Kazantzakis, Ascèse, trang 56).

Trong quyển tiểu thuyết Le Christ Recrucifié, Nikos Kazantzakis đã dựng lên một nhân vật lạ thường, tên là Manolios, Manolios chính là hình ảnh con người lên đường đi đến hố thẳm; Manolios đi lại con đường của chúa Jésus; Manolios lên đường bước đến hố thẳm một cách im lặng, không hy vọng, một cách rộng lượng. Manolios đã sống một đời thánh thiện trong sạch và đã hy sinh chịu chết để chuộc tội lỗi của con người.

Trước khi hoàn toàn quyết định sống cuộc đời của một kẻ lên đường đi đến hố thẳm, Manolios kể lại câu chuyện ngụ ngôn cho các bạn thân thiết để nói qua về sứ mạng của chàng:

Tôi sẽ kể cho bạn nghe một câu chuyện về một thầy tu kia… Giấc mộng lớn của đời thầy là được Thượng đế cho đi hành hương đến quỳ lạy trước thánh mộ của Chúa Jésus. Thầy đi khắp nơi trong những thôn làng để xin của bố thí. Sau nhiều năm dài, lúc đó thầy đã già, thầy thu góp được một số tiền khá lớn vừa đủ để lên đường hành hương. Thầy ăn năn khổ hạnh, xin phép thầy bề trên rồi lên đường hành hương… Vừa bước ra khỏi tu viện, thầy gặp một người nghèo khổ ăn mặc rách rưới, xanh xao, gầy yếu, trong thê thảm đau đớn vô cùng mà đang cúi xuống đất nhỏ cỏ. Người ấy nghe tiếng gậy của thầy vang lên trên đá, liền ngước đầu lên và hỏi: “Linh mục đi đâu đó? Thầy trả lời: “Tôi đi đến thánh mộ của Chúa. Tôi sẽ đi ba vòng quanh Thánh mộ và quì lạy. Người ấy hỏi : “Linh mục có bao nhiêu tiền?” Thầy trả lời: “Một số tiền khá lớn”. Người ấy nói: “Linh mục hãy cho tôi số tiền ấy đi; tôi có vợ và một bầy con đang chết đói, linh mục hãy cho tôi số tiền ấy đi; đi ba vòng quanh tôi, rồi quì và lạy trước tôi”. Thầy lấy tiền ra và đưa hết cho người nghèo ấy, thầy đi ba vòng quanh kẻ ấy, rồi quì gối và cúi lạy. Sau đó thầy đi trở về tu viện”.

Manolios im lặng, rồi nói tiếp:

“Buổi chiều nay, sau nhiều năm trôi qua, tôi mới hiểu rằng người nghèo khổ ấy là ai”.

Mấy người bạn hỏi:

Người nghèo khổ ấy là ai?”

Manolios lưỡng lự. Sau cùng, một cách im lặng, như một trái chín ban đêm rụng trong vườn, Manolios trả lời:

Đó là Chúa Ki Tô.

Một lúc sau, Manolios giải thích:

Như vị thầy tu kia, tôi đã xây bao nhiêu là kế hoạch to lớn, đang khi tôi chỉ là một thằng tầm thường: chuồng cừu của tôi vẫn chưa đủ đối với tôi, tôi nóng lòng muốn đáp tàu to lớn, muốn đi đến tận địa cầu để tìm giải thoát cứu rỗi. Tôi cho rằng thánh mộ của Chúa nằm rất xa xôi trùng điệp, ở tận địa cầu, và tôi đã khinh bỉ mảnh đất nhỏ bé này mà Thượng đã đặt ném tôi vào… Nhưng bây giờ tôi đã hiểu: Chúa Ki Tô ở khắp nơi trên trần gian này, ở cận nơi lòng ta. Trong thôn làng giàu sang này, Chúa Ki Tô đang nghèo đói, không nơi trú ẩn. Chúa nghèo và có một bầy con đang đói. Chúa đi ăn mày, gõ cửa từng nhà, gõ cửa từng lòng, và người ta xua đuổi Chúa, người ta đuổi Chúa từ nhà này đến nhà khác, từ lòng này đến lòng khác” (Nikos Kazantzakis, Le Christ Recrucifié, trang 274-276).

Những lời nói trên của Nikos Kazantzakis đã làm sáng tỏ ý nghĩa câu:

Giải đất mới chỉ có trong lòng người…”

Thánh địa không phải ở tận bên Do thái, thánh địa ở đây, nơi lòng ta “Tuỳ kỳ tâm tịnh, tức Phật độ tịnh”

Khi tôi không hiểu Tự Tánh, tôi chạy loanh quanh khắp mọi phương trời để tìm giải thoát, tôi cho rằng giải đất mới (hay thiên đàng) ở xa lắm, tận bên kia chân trời; cũng như vị thầy tu kia đi tìm cứu rỗi tận thánh mộ xa xôi, tôi chạy đi tìm khắp nơi, cầu Đông cầu Tây nhưng thực ra thì “giải đất mới chỉ có trong lòng người”, chứ không phải ở nơi nào cả.

Có nên nhắc lại lời của đại sư Huệ Năng, lục tổ Thiền tông: “Phàm phu bất liễu tự tánh bất thức thân trung tịnh độ, nguyện Đông nguyện Tây; ngộ nhơn tại xứ nhứt”, kẻ tầm thường chẳng hiểu tự tánh, chẳng biết cõi Tịnh độ là ở trong thân mình, mà cầu Đông cầu Tây, chứ người đã tỏ ngộ thì chỗ nào cũng vậy thôi (Pháp bảo đàn kinh, phẩm quyết nghi).

Ta hãy suy tưởng ba câu văn dưới đây:
  1. thân trung Tịnh độ” và “Thiên đường chỉ tại mục tiền” (Huệ Năng, Pháp bảo đàn kinh)
  2. “nước Chúa Trời ở trong lòng các ngươi” (Thánh kinh, Tân ước, Lu ca, 17, 21)
  3. “giải đất mới chỉ có trong lòng người” (Nikos Kazantzakis, Ascèse, trang 56).
Khi biết rằng: “Chúa Ki Tô ở khắp nơi trong lòng thế gian này, Chúa Ki Tô ở cận ngay nơi lòng ta” (Nikos Kazantzakis, Le Christ Recrucifié, trang 276), thì Manolios đã quyết định làm gì? Sau khi đã biết như thế, Manolios có bổn phận nào?

Nikos Kazantzakis để Manolios trả lời cùng mấy người bạn đồng đường:

“Này anh em, tôi đã quyết định thay đổi hoàn toàn lối sống của tôi, tôi quyết định cắt đứt quá khứ và đi theo đấng Ki Tô trên dặm đường” (278).

Đi đâu?

Manolios trả lời:

Đi đâu ư? Anh đã quên rằng vị thầy tu kia đã tìm thấy thánh mộ ở đâu sao? Bất cứ người nào tranh đấu và đau khổ trên một mảnh đất nhỏ, tức là người ấy đã tranh đấu và đau khổ trên trái đất này. Tôi sẽ ở lại cùng các anh em mãi mãi! Ở nơi đây, nơi thôn làng này và nơi núi này, trên giải đất chúng ta. Chính nơi đây là nơi tôi phải gieo và gặt; chính nơi đây là nơi trời đã đặt để tôi, là nơi mà trời dạy tôi phải tranh đấu. Mỗi một cục đất ở bất cứ nơi nào cũng đều là thánh mộ” (trang 278).

Ta hãy quì hôn lòng đất; mỗi mảnh đất đều thiêng liêng.

Trong tập Ascèse (tâm thuật), Nikos Kazantzakis viết nơi trang 46: “Không nổi loạn phù phiếm, và nhận những giới hạn của trí thức con người và trong vòng giới hạn chặt chẽ ấy, hãy làm việc không ngừng”.

Làm việc gì?

Làm việc giải thoát.

Làm việc giải thoát là gì?

Một cách im lặng” là không nổi loạn phù phiếm.

Không hy vọng” là nhìn nhận những giới hạn của trí thức con người.

Một cách rộng lượng” là không ngừng làm việc.

Bây giờ ý nghĩa phong phú của câu văn này đã mở ra trọn vẹn.

Giải đất mới chỉ có trong lòng người… Bổn phận mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, không hy vọng, một cách rộng lượng” (Nikos Kazantzakis, Ascèse, trang 56).

Ý nghĩa câu trên được cô đọng lại trong hình ảnh một người bước đi ba vòng quanh một kẻ nghèo khổ rồi cúi lạy quì hôn lòng đất.


(Tiếp phần II, chương nhứt)

5.

Người lên đường đi đến hố thẳm mới thực là tha thiết yêu đời. Chính hố thẳm làm cuộc đời trở nên quí giá.

Sống không hy vọng là sống để lên đường đi đến hố thẳm, đó là nhận thức căn bản của con người thực sự. Sự nhận thức Thực tại này không làm cho tôi rơi xuống chủ nghĩa hư vô bi quan, mà lại khiến tôi nhận ra trách nhiệm của mình; chính tôi tự nhận trách nhiệm cho riêng tôi, chứ không ai bắt buộc; trách nhiệm ấy là trách nhiệm của một thuyền trưởng trong một chiếc tàu sắp đắm chìm giữa trùng khơi.

Tàu chắc chắn sắp đắm chìm, không còn hy vọng gì nữa. Biết như vậy và biết mình đang sắp xuống hố thẳm nhưng không than thở, vị thuyền trưởng vẫn giữ niềm kiêu hãnh trên ánh mắt long lanh, nhìn thẳng vào Thực tại, không dối lòng, không chạy trốn, lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, không hy vọng, một cách rộng lượng, thản nhiên nhận lấy trách nhiệm và hy sinh.

Tâm hồn bi tráng là tâm hồn của người thuyền trưởng trong một chiếc tàu sắp đắm; chính sức sống bi tráng ấy đã khiến những phút giây còn lại của đời người trở nên mãnh liệt, phong phú, thi vị, cao đẹp, lan tràn ý nghĩa, đáng sống nhất, vì thế, người thuyền trưởng hiên ngang trong một chiếc tàu sắp đắm lại là kẻ yêu đời tha thiết nhất. Người ta chỉ yêu đời thực sự và thấy cuộc đời có ý nghĩa là khi người ta sống sát bên cái chết từng giây từng phút. Người ta chỉ hiểu ý nghĩa cuộc đời là khi người ta rờ mó sự chết trong mười ngón tay mình.

Bi tráng không phải là chết, bi tráng là sống với cái chết; bi tráng là sống không hy vọng, một cách im lặng, một cách rộng lượng, nhân từ.

Giây phút tuyệt đối và quan trọng nhất trong đời người vãn là một tí tắc trước khi chết; cái tí tắc nhanh chóng ấy quyết định cả đời người, cả chức vị làm người; cái tí tắc ấy là lời phán xử cuối cùng; cả một đời người hiện về trong cái tí tắc ấy: cái tí tắc ấy chỉ là một thoáng giây; nhưng đối với người sắp chết, nó lâu dài bằng cả một đời người… Khi con người sắp bước vào thế giới phi thời gian thì thoáng giây biến chuyển từ thời gian đến phi thời gian là một thoáng giây thiên thu nằm trong thời gian ngược chiều.

Con người có hoàn toàn bi tráng hay không, chỉ trong thoáng giây tí tắc ấy mới hoàn toàn quyết định; nếu trong thoáng giây quan trọng ấy, người sắp chết vẫn nhìn trừng trừng vào cái chết với đôi mắt thản nhiên, một cách rộng lượng, im lặng và không hy vọng, mỉm cười, không hối hận, không sợ hãi, không tiếc nuối thì con người ấy mới thực là con người bi tráng; đối với kẻ ấy, trong một thoáng giây thiên thâu ấy, sự chết và sự sống không còn khác nhau nữa, mà chỉ là một thôi, mộng và thực đều là một thôi.

Cái tí tắc trước khi chết quyết định trọn cuộc đời người, nhưng trọn cuộc đời người cũng quyết định cái tí tắc trước khi chết. Bởi thế, sống trên đường đời, con người phải luôn luôn sẵn sàng lên đường đi đến hố thẳm; bất cứ một giây phút nào trong đời, tôi cũng phải đều sẵn sàng luôn; sự sẵn sàng từng phút một ấy làm thành ý nghĩa cuộc đời và chính ý nghĩa ấy quyết định cái tí tắc trước khi chết, cũng như cái tí tắc ấy quyết định ý nghĩa ấy; như thế, nói rõ ràng hơn, cuộc đời là một tí tắc trước khi chết và một tí tắc trước khi chết là cuộc đời.

Từ những nhận thức trên, tôi đi đến một nhận thức quan trọng:

Khi nào cái tí tắc tối hậu ấy xảy đến cho tôi?

Câu hỏi này đưa cho tôi đến nhận thức căn bản này: “tôi đang lên đường đi đến hố thẳm” vì tôi không biết cái tí tắc tối hậu ấy xảy đến cho tôi vào lúc nào, cho nên cái tí tắc ấy có thể xảy đến cho tôi vào bất cứ lúc nào, có thể xảy đến cho tôi vào mọi lúc. Do đó, tôi phải luôn sẵn sàng từng giây từng phút trong đời tôi, để khi cái tí tắc ấy hiện đến thì giữa nó và tôi sẽ có sự gặp gỡ, sự gặp mặt giữa hai người bạn quen thuộc, sự trùng phùng giữa tôi và mình, sự hôn phối giữa hai thực thể khác nhau, mà “mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai!”, lúc bấy giờ, sự sống và sự chết sẽ làm đám cưới nhau trong tình yêu nồng thắm.

Thực ra đó cũng chỉ là sự gặp gỡ lại một lần nữa thôi, vì lúc tôi mới chào đời là lúc sự sống và sự chết đã làm đám cưới nhau rồi; và lúc tôi nhắm mắt lại lìa trần là lúc đám cưới ấy cử hành một lần nữa.

Đám cưới ấy có được cử hành lại hay không là do chính lối sống tôi quyết định, cũng như do chính cái tí tắc trước khi chết quyết định. Nếu tôi yêu sự chết, yêu theo nghĩa tình yêu sáng tạo (một vẫn là hai, hai mà lại một; đồng nhất nhưng không đánh mất tính chất độc đáo của mình); (tình yêu sáng tạo là tình yêu chứa đựng sự chăm sóc, kính trọng, hiểu biết, nhất là trách nhiệm và hy sinh), nếu tôi yêu sự chết trong tình yêu sáng tạo ấy thì sự chết ấy chính là một sự hoàn thành sự sống tôi, một sự thành tựu, đại thành, một lễ gia miện, lễ đăng quang; nói một cách khác, lúc tôi chết là lúc tôi đã sống thực sự và từ sự chết ấy tôi sẽ bước sang sự sống thực sự tuyệt đối hơn và cái chết ấy là mùa đông, nói đến mùa đông là tự nhiên ta đã thấy le lói mùa xuân ở chân trời.

Yêu sự chết trong tình yêu sáng tạo là yêu sự chết mà mình vẫn sống! Sự sống và sự chết yêu thương nhau như dương và âm điều hoà nhau; trong âm có dương, trong dương có âm, trong sự sống có sự chết, trong sự chết có sự sống. Nếu âm thịnh mà dương suy, hay dương thịnh mà âm suy thì tình yêu ấy không phải là tình yêu sáng tạo, đó chỉ là tình dục, tình dâm, bạo dâm (sadisme) và thụ dâm (masochisme); cũng như nếu sự sống thịnh và sự chết suy, hay sự chết thịnh mà sự sống suy, thì sống không ra sống, mà chết không ra chết, lúc bấy giờ con người trở thành ra những xác không hồn trong khi sống, con người sống bơ phờ giữa tù ngục thời gian.

Yêu sự chết trong tình yêu sáng tạo có nghĩa là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, một cách rộng lượng và không hy vọng.

Con người đi đến hố thẳm một cách im lặng, một cách rộng lượng, không hy vọng, đó là vị thuyền trưởng trên chiếc tàu sắp bị đắm; vị thuyền trưởng ấy tự nhận lấy trách nhiệm và hy sinh; không phải trách nhiệm cho một cá nhân nào hay hy sinh cho một cá nhân nào; trách nhiệm là trách nhiệm trước hố thẳm, hy sinh là hy sinh trước hố thẳm; trách nhiệm trước hố thẳm là trách nhiệm đối với mình; hy sinh với hố thẳm là mình hy sinh đối với mình; đối với mình là đối với lòng mình; mà lòng mình tức là lòng người và lòng mình (hay lòng người) chính là hố thẳm. Mà hố thẳm chính là giải đất mới; vũ trụ là giải đất mới, và “giải đất mới chỉ có trong lòng người…”

Trong tập Ascèse, trang 99, Nikos Kazantzakis viết: “Sự đồng hoá của chúng ta với vũ trụ tạo ra hai đức tính tối thượng của đạo đức chúng ta, đó là sự trách nhiệm và sự hy sinh”.

Sự đồng hoá hay sự đồng nhất.

Chúng ta và vũ trụ đồng hoá nhau hay đồng nhất nhau.

Hai mà một, một mà hai.

Hai đức tính tối thượng ấy cũng đồng hoá nhau.

Trách nhiệm là hy sinh.

Hai đức tính tối thượng của đạo đức chúng ta.

Đức cũng là đạo.

Đạo và đức cũng chỉ là một.

Vậy một của một là gì?

Là hố thẳm.

Con người lên đường đi đến hố thẳm là hai trở về một.

Khi tôi là một thì không cần trách nhiệm và hy sinh. Nhưng khi tôi là cả vũ trụ, thì tôi phải tự mang lấy sự hy sinh và trách nhiệm.

Đang khi chiếc tàu chắc chắn sắp đắm, mà vị thuyền trưởng không chịu lên đường đi đến hố thẳm thì vị thuyền trưởng ấy không đáng gọi là thuyền trưởng; vị thuyền trưởng ấy đã trốn trách nhiệm và sợ hy sinh; trách nhiệm là lên đường đi đến hố thẳm, hy sinh là im lặng, rộng lượng, không hy vọng.

Đồng hoá ta với vũ trụ là đồng hoá mình với hố thẳm; lên đường đi đến hố thẳm là lên đường đi đến mình; mình là hố thẳm; lên đường đi đến hố thẳm là lên đường đi đến chức vị thực thụ của thuyền trưởng.

Không ai lên đường đi đến chức vị thực thụ của mình mà không tha thiết yêu đời?

Nguyện tha thiết yêu đời là bổn phận của con người; nguyện tha thiết yêu đời là nguyện lên đường đi đến chức vị làm người, chức vị thực thụ của mình; bổn phận con người là lên đường đi đến chức vị của mình (danh từ Hán việt “bổn phận” có nghĩa là “chức phận của mình”; chữ Hán “phận” có nghĩa là “chức vị của người”).

“Tôi nằm dài sấp xuống mặt đất, phóng chìm vào trong sự im lặng, không suy nghĩ gì hết. Tôi trở thành một với đêm và biển; tôi cảm thấy tâm hồn tôi là một con đôm đốm, một ánh đèn nhỏ rực sáng, đậu trên mặt đất ướt và chờ đợi…” (Nikos Kazantzakis, Alexis Zorba, trang 77).

“Phóng chìm vào trong sự im lặng” là lên đường đi đến hố thẳm một cách im lặng.

“Không suy nghĩ gì hết” là rộng lượng không hy vọng.

Người mang hy vọng nhiều nhất là người hay suy nghĩ nhiều nhất. Suy nghĩ đồng nghĩa với hy vọng. Không suy nghĩ là không hy vọng; bản chất của ý thức là hy vọng! Hy vọng là hy vọng về một điều gì đó, suy nghĩ là suy nghĩ về một điều gì đó; càng suy nghĩ càng hy vọng. Khi hết còn hy vọng là lúc sự suy tư cũng chấm dứt.

Người rộng lượng là người không suy nghĩ gì hết, rộng lượng một cách tự nhiên, hồn nhiên. Sự rộng lượng mà có suy nghĩ thì đó mới chỉ là suy nghĩ về rộng lượng, chứ chưa phải rộng lượng.

Tôi trở thành một với đêm và biển…”

Không suy nghĩ gì hết, chữ Hán gọi là “vô niệm”. Chính “vô niệm” làm tôi trở thành một với đêm và biển. “Vô niệm” cắt đứt sự khác nhau; “vô niệm” phá tan sự phân biệt.

Tôi và đêm và biển chỉ là một.

Đêm là hố thẳm.

Biển là hố thẳm.

Tôi là đêm, tôi là biển, tôi là hố thẳm.

“Tôi nằm dài sắp mặt, phóng chìm vào trong sự im lặng, không suy nghĩ gì hết. Tôi trở thành một với đêm và biển…” (Nikos Kazantzakis, Alexis Zorba, trang 77).

Đó là hố thẳm.

Đó là ý nghĩa của hố thẳm.

Hố thẳm tức là giải đất mới.

Tôi cảm thấy tâm hồn tôi là một con đôm đốm, một ánh đèn bé nhỏ rực sáng, đậu trên mặt đất ướt và chờ đợi” (trang 77).

Chờ đợi gì?

Chờ đợi hố thẳm.

Đó là tâm hồn của con người lên đường đi đến hố thẳm. Tâm hồn ấy như một con đôm đốm, một ánh đèn bé nhỏ rực sáng, đậu trên đất ướt chờ đợi.

Biết chờ đợi là một điều rất khó.

Con người thời đại này không biết chờ đợi.

Chờ đợi là không hấp tấp, không vội vã.

Phải biết chờ đợi hố thẳm; lên đường đi đến hố thẳm, mà lên đường bước đi không hấp tấp, không vội vã; khi người ta hy vọng, người ta vội vã, hấp tấp; rộng lượng là không hấp tấp.

Con người là một trái cây ở rừng núi; trái cây chính đỏ sẽ rơi xuống hố thẳm. Ta phải biết chờ đợi.

Một cách chậm chạp, một cách kiên nhẫn, dưới tác động của mặt trời, mưa, gió, trái trở nên chín muồi, rồi đến một ngày thì rụng. Hãy kiên nhẫn, hỡi anh em. Đừng hỏi han cật vấn ai cả, ngoài ra hỏi mình. Giờ tốt sẽ đến, đến cho anh; lúc bấy giờ, anh sẽ không đặt nghi vấn gì nữa; một cách im lặng, anh sẽ từ bỏ vợ, con, cha mẹ, cơ nghiệp, mà không cảm thấy một chút xót xa, đau lòng ” (Nikos Kazantzakis, Le Christ Recrucifié, trang 278).

Bỏ đi đâu?

Lên đường đi đến hố thẳm.

Một cách im lặng.

Từ bỏ vợ, con, cha mẹ, cơ nghiệp, không cảm thấy xót xa đau lòng, mà lại cảm thấy thiết tha yêu đời, cảm thấy tâm hồn lâng lâng như một con đôm đốm, một ánh đèn nhỏ rực sáng, đậu trên mặt đất ướt và chờ đợi…

Tôi phải tự hỏi tôi:

“Mi đang làm gì đây?”

Và tự trả lời:

“Tôi đang chờ đợi”

Và tự nhắc:

“Vậy phải chờ đợi cho ra chờ đợi”.

Cũng như Alexis Zorba tự nói:

Mi đang làm gì đây?

và tự trả lời và tự nhắc mình:

“Ta đang ngủ”.

“Vậy ngủ cho ra ngủ, hãy ngủ cho ngon.”

“Mi đang làm gì đây?”

“Ta đang làm việc”

“Vậy hãy làm việc cho ra làm việc, hãy làm việc cho hăng.”

“Mi đang làm gì đây?”

“Ta đang ôm nàng.”

“Vậy hãy ôm nàng cho đắm đuối. Và quên hết mọi sự. Chỉ có hiện tại. Chỉ có nàng. Còn những thứ khác đều lường gạt, ảo ảnh!” Bắt chước Alexis Zorba, ta cũng tự hỏi, tự trả lời và tự nhắc mình:

“Mi đang làm gì đây?”

“Tôi đang sống.”

“Vậy thì hãy sống cho ra sống, sống cho ra hồn.”

“Mi đang làm gì đây?”

“Tôi đang khóc.”

“Vậy thì hãy khóc cho hết nước mắt đi.”

“Mi đang làm gì đây?”

“Tôi sắp chết”.

“Vậy hãy chết cho ra chết, nghĩa là hãy chết tươi chứ đừng chết héo!”

Những câu đối thoại trên là ý nghĩa của sự yêu đời tha thiết. Yêu đời như vậy mới ra yêu đời; Chỉ có hiện tại (ở đâybây giờ). Còn những cái khác đều là lường gạt, ảo ảnh.

Người yêu đời tha thiết là người liều thân, liều mình, một kẻ dám làm hết mọi sự, một người không hề biết sợ hãi là gì.

Dám làm hết mọi sự;” (Nikos Kazantzakis, Alexis Zorba, trang 382).

Kẻ liều lĩnh lao vào tất cả những hang hố ở đời, chính kẻ ấy mới hiểu cuộc đời trong mọi dạng thái.

Một con người bình tĩnh bình thường không thể nào hưởng thụ tận cùng những hương sắc trần gian. Phải mất quân bình. Phải điên một chút. Phải gàn. Phải mất trí.

Phải có một chút máu điên, điên, anh nghe không?” (Nikos Kazantzakis, Alexis Zorba, trang 382).

Hãy ném quăng cái trí óc anh đi!

Trí óc là một tên bán thực phẩm, hắn giữ sổ sách, tôi đã trả bao nhiêu, tôi đã thu bao nhiêu, đó là tiền lời lãi, đó là lỗ lã! Trí óc là một con buôn bé nhỏ dè dặt, nó không muốn vận dụng hết mọi sự, nó luôn luôn để dành lại, giữ lại” (Nikos Kazantzakis, Alexis Zorba, trang 382).

Đừng giữ lại gì cả. Hãy buông hết mọi sự! Đừng nắm lại, đừng xiết lại. Tôi hãy ném trọn tâm hồn tôi vào đời. Rồi nó đi đến đâu. Mặc. Không nghĩ. Không lo lắng. Đừng tính toán. Cắt đứt hết mọi sợi dây ràng buộc. Buông xuôi hai tay đi. Thả lỏng đi. Nếu mi không làm thế thì mi còn hưởng được hương vị nào của đời? Nếu không làm như thế thì mi chỉ được hưởng một mùi nhạt nhẽo tầm thường. Phải uống rượu mạnh để rồi ngây ngất hơi men mà nhìn thế gian đảo ngược. Cuộc đời là rượu mạnh. Hãy uống cuộc đời cho nóng bừng cả mặt. Rồi nhảy tung vào hố thẳm!

Đừng tính toán nữa… Hãy bỏ những con số ở đó đi, hãy phá hủy cán cân quân bình, hãy đóng cửa hiệu buôn. Tôi nói với anh như thế, anh có nghe rõ chưa?

Chính lúc này, chính bây giờ là lúc anh sẽ giải thoát hoặc đánh mất linh hồn anh” (Alexis Zorba, trang 136).

Khối óc của mi là một hiệu buôn, hãy đóng cửa hiệu buôn lại, bây giờ là lúc quyết định cuộc đời mi nếu mi không từ bỏ những con số, nêu mi không phá đổ cán cân quân bình, nhất định mi sẽ đánh mất chức vị làm người của mi và mi không đáng gọi là con người. Mi sẽ không tự mình đi đến hố thẳm với tâm hồn siêu tuyệt của mình, mà mi sẽ bị xô ngã xuống hố thẳm, một cách thình lình và đầy hãi hùng.

Chỉ có hai con đường, mi hãy chọn lấy một là tự mình lên đường đi đến hố thẳm, im lặng, rộng lượng, không hy vọng, bước đi hùng dũng bi tráng như con sư tử rừng núi; hai là bị kéo lôi quăng ném xuống hố thẳm một cách nhục nhã, bi thảm, thình lình, như một con heo thành thị bị lôi vào lò heo Chánh Hưng.

Chỉ có người tự nguyện lên đường đi đến hố thẳm mới mang ý thức bi tráng; ý thức bi tráng không phải là ý thức bi thảm; ý thức bi tráng là ý thức sáng sủa của một người biết cười trước những gì kinh khủng nhứt của đời mình.

Chỉ có kẻ ấy mới thực sự yêu đời, yêu cuộc đời ngây ngất đến độ bốc lửa, yêu cuộc đời triền miên trong màu sắc vô thường hư ảnh yêu mà không bám vào cái yêu ấy, yêu mà vẫn siêu thoát, vừa yêu vừa im lặng lên đường đi đến hố thẳm, một cách rộng lượng, không hy vọng.

Trần gian này có biết bao là lạc thú, nào là đàn bà, trái cây, ý tưởng. Nhưng rẽ sóng băng qua mặt biển đó, vào một trời thu non dịu, thì thầm mỗi cái tên của từng hải đảo, thì tôi cho rằng không còn lạc thú nào hơn nữa, chỉ có niềm vui đó là đưa những trái tim con người vào cõi thiên đàng” (Alexis Zorba, trang 27).

Không phải chỉ có những đàn bà, những trái cây, những ý tưởng. Con người yêu đời tha thiết nhứt và trọn vẹn nhứt là yêu ngay cả những sự việc tầm thường nhứt của trần gian; hắn là thi sĩ thần bí: dưới đôi mắt hắn, văn xuôi của trần gian biến thành thơ. Chỉ rẽ sóng băng biển vào một sớm thu non dịu, chỉ khe khẽ thì thầm đọc tên từng hải đảo, chỉ có bấy nhiêu thôi là đủ cho tôi quì lạy cảm tạ trần gian; đó là lạc thú nuôi dưỡng cả một đời người; chỉ có bấy nhiêu là đủ rồi, đủ lắm rồi, không cần đòi hỏi gì thêm nữa. Chỉ cần rẽ sóng băng biển vào một trời thu bàng bạc dịu hiền, chỉ cần kêu lên từng tên hải đảo, thỏ thẻ từng âm thanh, chỉ có bấy nhiêu đủ để tôi an tâm im lặng mà đi vào hố thẳm, không tiếc nuối, mà lại mang cả lòng tạ từ thanh thoát.

Mang tâm trạng ấy, những khung cảnh giới hạn của đời sống hiện tại, như chiến tranh, như những biến cố chính trị, không còn kéo lôi tôi vào cuồng phong hỗn loạn mà trái lại những thức tại bi đát ấy làm những kích thích tố cho sự yêu đời chan chứa của tôi, nghĩa là tôi đã vượt qua giới hạn chật hẹp của trần gian.

Trong tâm trí của Alexis Zorba, những biến cố hiện đại chỉ còn là những chuyện cũ rích, trong lòng hắn, hắn đã vượt qua những biến cố ấy. Hiển nhiên, trong tư tưởng hắn, điện tín, tàu thuỷ, tàu hoả, luân lý phổ thông, tổ quốc, tôn giáo, đều trở thành những khẩu súng hoan rĩ. Tâm hồn hắn đã vượt nhanh hơn trần gian” (Alexis Zorba, trang 28).

Văn minh, tổ quốc, luân lý, tôn giáo chỉ cần thiết đối với những con người tầm thường, không biết sống, không biết chết, không biết yêu đời tha thiết.

Đối với những tâm hồn kiêu dũng, đối với những kẻ yêu đời say đắm, đối với những người lên đường bước đến hố thẳm một cách im lặng, rộng lượng, không hy vọng thì những thứ ấy (tổ quốc, luân lý, tôn giáo, văn minh) chỉ là những bài hát vọng cổ cũ rích, lặp đi lặp lại nhì nhằng, lê thê, rất nhàm, rất chán và rất hẹp, trước sự sống cuồng lưu của ý thức bi hùng.

Người có tâm hồn siêu thoát vượt lên trên những thứ ấy, mà lòng luôn luôn miên man tha thiết yêu đời…


6.

Nikos Kazantzakis rất ngưỡng mộ yêu mến nhân vật Ulysse của Homère; hình ảnh Ulysse tượng trưng cho tâm hồn tráng sĩ giang hồ, một sức mạnh bất khuất chiến thắng nỗi yếu đuối bẩm sinh của con người, đồng thời chiến thắng cả uy lực vũ bão của thần thánh. Nikos Kazantzakis viết một tập thơ trường thiên, mang tên là L’Odyssée xuất bản năm 1938, gồm có ba mươi ngàn ba trăm ba mươi ba câu thơ; Nikos Kazantzakis nối tiếp thi nghiệp của Homère: tập thơ L’Odyssée của Nikos Kazantzakis viết tiếp theo truyện L’Odyssée của Homère. Trong tập L’Odyssée của Nikos Kazantzakis, sau khi trải qua bao nhiêu gian truân chướng ngại trên bước đường giang hồ từ thành Troie, sau cùng, Ulysse trở về được quê hương, xum họp với vợ hiền con ngoan trong tình thương nồng nàn ấm cúng, nhưng được một thời gian sau, máu giang hồ sôi sục lại, người tráng sĩ lang bạt ấy lên đường lưu lạc, từ bỏ người vợ hiền lành, một lần nữa lao vào cuộc phiêu lưu bát ngát trùng dương.

Hồi chưa trở về tới quê hương, Ulysse đã tìm hết mọi cách trở về quê hương. Ulysse nhớ quê hương da diết, trong khi bị nữ thần Calypso lôi cuốn vào mối tình đắm đuối cuồng nhiệt, Ulysse vẫn đăm chiêu nhớ về tổ ấm quê hương, nơi đó vợ con đang mõi mòn trông đợi.

Nikos Kazantzakis đã kể lại nỗi lòng hoài hương của Ulysse trong tháng ngày ân ái cùng thần nữ Calypso bằng những dòng thơ man mác sau đây:

Không cười, không cảm giác một cách lặng lẽ, tôi nhón bước trên những tảng đá. Thân hình trống rỗng, trong suốt của tôi không còn phủ bóng xuống mặt đất; giữa hai chân tôi những con chim biển bay qua bay lại thản nhiên, không sợ hãi; người ta có thể ngỡ rằng đó là một vị thần vô hình đang bước đi trên bãi biển. Một buổi sáng kia, trên những hòn đá trơ trọi, tôi vấp phải một mảng bè dài mà biển đã mửa vào bờ lúc ban đêm. Có phải đó là xương của một con cá khổng lồ? đuôi của một con chim to lớn? cành của một cây biển? Gậy của hung thần ở biển? Sau một hồi định thần, tôi có cảm giác dường như đang cầm trong tay một mái chèo quen thuộc thân yêu. Đang lúc tôi vuốt ve mái chèo, đôi mắt mờ đục của tôi vụt sáng lên và tôi thấy lại bàn tay xạm đen giữ mái chèo, tôi thấy lại đuôi tàu sủi bọt và cánh buồm trên cột tàu; những bạn đường thuở xưa của tôi chạy đến từng đám với những cánh tay xạm nắng, và nước biển cũng tràn đến và đập vỗ vào người tôi; đầu óc tôi rung động, thế rồi tôi nhớ đã lên đường phiêu lạc từ nơi nào mà tôi thao thức muốn trỏ về nơi đó, nơi quê hương. Ồ, bây giờ tôi mới biết rằng mình cũng là một con người hăng say, tim tôi đang đập mạnh; ừ, tôi có quê hương, một vợ, một con và một chiếc tàu bước nhanh, nhưng hỡi ơi, nào ngờ tâm hồn tôi đã đắm chìm trôi dạt nơi tiên nữ Calypso” (Nikos Kazantzakis, L’Odyssée).

Ulysse nhớ quê hương mãnh liệt như thế, nhưng khi trở về quê hương được một thời gian, Ulysse cảm thấy chán nản và Nikos Kazantzakis để cho nhân vật Ulysse của ông lại lên đường cho thoả mãn lòng khao khát trời rộng trùng khơi. Ulysse lên đường cùng Hélène để phiêu lưu giang hồ; trước hết, họ viếng thăm nền văn minh tàn tạ ở Knossos tại đảo Crète, tham dự lễ nghi bò mộng ở nơi đó, huy động quân binh để đánh phá đô thị bại hoại ấy, rồi tiếp tục lên đường phiêu lưu đến những miền xa xôi trùng điệp như Ai Cập và Phi Châu. Ulysse thao thức đi tìm một đức tin cho tâm hồn khắc khoải của mình, một lẽ sống để làm đuốc soi vùng đen tối của Hư vô, nhưng rồi Ulysse lần lượt chấp nhận từng thần tượng này đến thần tượng nọ, chấp nhận rồi chối bỏ rồi chấp nhận nữa, để rồi chối bỏ nữa, và sau cùng Ulysse chối bỏ hết mọi thần tượng và nhìn thẳng vào bộ mặt bi đát của trần gian, mà không còn nuôi bất cứ một ảo tưởng nào nữa. Sau hết, Nikos Kazantzakis để cho Ulysse bước lên một chiếc xuồng nhẹ và tự mình quyết định cho xuồng trôi vào cõi chết giữa những mảng tuyết lạnh giá của miền Nam cực.

Nhân vật Ulysse của Nikos Kazantzakis đã nhìn thẳng vào sự chết.

Hắn đứng dậy, thực thẳng, trước sự hỗn mang và hắn nhìn sự hỗn mang ấy bằng con mắt trong suốt” (Nikos Kazantzakis, Ascèse, trang 35).

Bi tráng là gì?

Nhìn thẳng sự hỗn mang với đôi mắt trong suốt của mình và thấy sự hỗn mang ấy có một vẻ đẹp huyền bí, nghĩa là sự thực và sắc đẹp không mâu thuẫn nhau, mà lại hoà hợp nhau, chẳng những thế, sự thực là sắc đẹp và sắc đẹp là sự thực; nói một cách khác, chân là mỹ, mỹ là chân.
Bi tráng không phải là bi đát và bi thảm. Bi tráng là chuyển hoá nỗi đau khổ kinh hoàng thành ra niềm cực lạc ngất trời. Bi tráng là nhảy múa ca hát bên hố thẳm. Bi tráng là cuồng say ngây ngất trong sự đau đớn quằn quại. Nietzsche, Nikos Kazantzakis, Ulysse, Alexis Zorba là hình ảnh trung thực của con người bi tráng. Tóm lại, bi tráng (tragique) là đội vương miện trên nỗi đau đớn khôn cùng của cuộc đời.

Khi mọi sự đã đảo lộn, thực là một niềm hoan lạc to lớn biết bao trong việc thử thách tâm hồn chúng ta, để xem nó có đủ nhẫn nại và giá trị hay không? Người ta gọi đó là một kẻ thù vô hình và toàn năng tức là Thượng đế hoặc là quỷ đang xấn vào để đánh quỵ ta, nhưng ta vẫn đứng thẳng. Mỗi lần mà bề ngoài ta hoàn toàn bại trận, nhưng bên trong, ta vẫn chiến thắng thì con người thực sự cảm thấy kiêu hãnh và sung sướng khôn tả. Tai hoạ bên ngoài biến thành niềm khoái lạc cứng rắn và tối thượng” (Nikos Kazantzakis, La dernière Tentation).

Dù bên ngoài là nghịch cảnh tai hoạ khủng khiếp, nhưng bên trong vẫn là niềm kiêu hãnh vô biên và vô tận.

Đó là ý thức bi tráng.

Đau đớn đến rã rời, nhưng vẫn mím môi kiêu hãnh. Kiêu hãnh là sự khinh bỉ hạnh phúc.

Khinh bỉ hạnh phúc là không cần an ủi vuốt ve. Không phải là đàn bà hay con gái, mà cần phải được vuốt ve an ủi.

Không cần Thượng đế vuốt ve hay an ủi. Cũng không cần tình yêu, cũng không cần những sự an ủi dễ dãi của đời sống tầm thường.

Không cần những đức tính nhỏ bé.

Chỉ cần một đức tính duy nhất thôi. Đức Tính viết hoa: VẪN ĐỨNG THẲNG.
Vẫn đứng thẳng là khinh bỉ hạnh phúc.

Khinh bỉ hạnh phúc là lên đường đi đến hố thẳm, im lặng, không hy vọng, rộng lượng.

CHÚNG TÔI ĐANG LÊN ĐƯỜNG ĐI ĐẾN NHỮNG KHÓ KHĂN.

Hãy từ bỏ sự dễ dàng.

Hãy quì xuống cảm ơn đã được CÔ ĐƠN, đã được ĐÓI và đã được RÉT; cảm ơn vì tôi đã được đủ cả, không còn thiếu gì nữa.

Tình yêu, đối với tôi, nhỏ bé quá.

Hỡi em, em quá bé bỏng đối với tôi, em không thể làm người yêu muôn đời của tôi được bởi vì:

“TA MUỐN CƯỚI CẢ TRẦN GIAN”
“NOUS VOULONS ÉPOUSER LA TERRE”
(Nikos Kazantzakis, La dernière Tentation)

Đối với con người tầm thường, sự đau khổ và sự hạnh phúc chống đối nhau như hai kẻ thù chẳng đội trời chung (và hắn chạy theo hạnh phúc mà trốn đau khổ).

Đối với con người khác thường, đau khổ và hạnh phúc hợp tác nhau.

Đối với con người lạ thường, đau khổ và hạnh phúc chỉ là một thôi.

Đối với con người phi thường, đau khổ và hạnh phúc không có hiện hữu; đó chỉ là ảo tưởng do mình tự tạo ra thôi.

Trong bức thư ngỏ trên một tạp chí xuất bản năm 1939, Nikos Kazantzakis đã viết những dòng này, thu gọn cả tư tưởng của ông:
  1. Thiện và Ác chống đối nhau, như những kẻ thù;
  2. Thiện và Ác đề huề hợp tác;
  3. Thiện và Ác chỉ là một thôi;
  4. Cái một này không có.
Tóm tắt lại là Thiện và Ác chỉ là hai ý niệm được bày đặt ra và không có thực ở đời.

Lộ trình của Ý thức Bi tráng là đi từ sự đồng nhất giữa Thiện và Ác và chấm dứt nơi sự khám phá rằng Thiện và Ác không có thực; nghĩa là Ý thức Bi tráng trở về sự im lặng:

Chính sự im lặng là cấp bực tối hậu” (Nikos Kazantzakis).

Sự im lặng là giải đất mới trong lòng người. Tất cả tư tưởng của Nikos Kazantzakis là đưa con người trở về con người, trở về khám phá giải đất mới trong lòng mình mà mình đã đánh mất giữa sự huyên náo của cuộc đời; và như thế, Ý thức Bi tráng trở thành sự Bi tráng của chính Ý thức, vì sự bi tráng chấm dứt và tựu thành nơi sự im lặng của ý thức hay là ý thức lên đường đi trở về sự im lặng: con người được trở về mái nhà xưa.


Chương hai
Ý thức tuyệt vọng-Triết lý bi đát của Clément Rosset trong tác phẩm của Ernest Hemingway.
Không… không còn gì để nói
Hemingway (trang cuối của A Farewell to Arms)

1.

Clément Rosset là triết gia Pháp thuộc thế hệ “đợt sóng mới”; lúc cho xuất bản quyển cảo luận về triết lý Bi đát (Philosophie tragique), Clément Rosset mới hai mươi tuổi.

Hemingway đã viết những tác phẩm quan trọng của ông trước khi Clément Rosset ra đời; nhưng toàn thể tác phẩm Hemingway đều chứa đựng ý thức bi đát mãnh liệt hơn cả triết lý bi đát của Clément Rosset. Ý thức bi đát được thể hiện mãnh liệt nhứt trong quyển The sun also rises, truyện “The snows of Kilimandjaro”, những truyện In our time và quyển For whom the bell tolls, nhưng đến quyển The old man and the sea thì ý thức bi đát hoàn toàn trở thành bi tráng.

Trong chương này, tôi sẽ dùng triết lý bi đát của Clément Rosset để soi rọi vài khía cạnh của quyển A Farewell to Arms (Adieu aux armes), quyển tiểu thuyết tượng trưng nhứt và đặc sắc nhứt của Hemingway.

Chương này đã đăng trên tạp chí Mai số 47 vào năm 1962.

(Có một vài độc giả viết thư cho tôi, tỏ vẻ thắc mắc về vài ba trang trong quyển tiểu thuyết Yêu của ông Chu Tử; ông ấy có cho nhân vật bàn về triết lý bi đát của Clément Rosset và quyển A Farewell to Arms của Hemingway; vị độc giả trên tỏ vẻ thắc mắc tại sao trong quyển Yêu (khi bàn về triết lý bi đát của Clément Rosset và Hemingway) thì ông Chu Tử đã viết giống hệt như tôi viết trong tạp chí Mai vào năm 1962. Xin trả lời vắn tắt: ông Chu Tử đã chép lại bài tôi viết trong Mai, và vì lý do nào đó mà ông không ghi xuất xứ. Sở dĩ ông Chu Tử không ghi xuất xứ là vì điều đó có lẽ không cần thiết đối với loại văn tiểu thuyết chăng?) (xin đọc Yêu của ông Chu Tử, trang 197-199, nhà x.b. Đường Sáng, 1963).


2.

Xin dịch chữ “tragique” (trong Philosophie tragique của Clément Rosset) là “bi đát” vì chữ “đát” có mang ý nghĩa về kinh ngạc, ăn khớp với định nghĩa của Clément Rosset: “Le surprenant par essence”. Còn chữ “tragique” trong tư tưởng Nietzsche thì phải dịch là “bi tráng”. Chữ “bi tráng” này cũng dùng để dịch chữ “tragique” trong tư tưởng bi tráng kịch của cổ Hy Lạp như kịch của Eschyle, Sophocle, vân vân. Có người hiểu sai chữ “tragique” (như một bài của ông Trần hương Tử trong tạp chí Bách Khoa).

“Tragique” không có nghĩa là “kinh khủng” (terrible) và “thê thảm” (triste), mà “tragique” lại có nghĩa là cái gì chống lại sự kinh khủng và thê thảm; “tragique” là ngây ngất say sưa chinh phục và vượt lên trên tất cả những điều kinh khủng và thê thảm ở đời. “Tragique” là nghịch nghĩa của chữ “triste” và “terrible”. Nếu không hiểu được như thế thì chẳng nắm được căn bản suy tư và chẳng bao giờ bước vào được ngưỡng cửa tư tưởng Nietzsche, Eschyle, Sophocle và nhất là ngưỡng cửa triết lý của Clément Rosset.


3.

Cuối hè năm ấy, chúng tôi sống ở một căn nhà trong một thôn làng, nằm hướng về rặng núi, ngang qua dòng sông và bình nguyên [1] .


Quyển A Farewell to Arms của Hemingway mở đầu bằng những giòng chữ lặng lẽ như trên. Cuối hè năm ấy… In the late summer of that year… Vâng, cuối hè năm ấy… cuối đông năm ấy. Cuối thu năm ấy. Cuối xuân năm ấy… Tất cả câu chuyện đời đều mở đầu bằng giọng điệu như vậy. Qua lời mở đầu lặng lẽ trên, ta có thể đoán mơ hồ rằng có cái gì khủng khiếp mù mờ đang nằm ẩn sau bầu không khí tĩnh mịch kia: phải chăng một tấn bi kịch chua xót sắp dàn bày trước đôi mắt hồn nhiên của ta.

Rặng núi. Giòng sông và bình nguyên. Khói và bụi vây phủ núi và đồng. Vài ba xác người lững lờ trôi theo dòng nước.

Đầu mùa đông, một cơn mưa liên miên trở về [2] . Núi, đồng và sông. Rồi mưa. A Farewell to Arms mở đầu với một cơn mưa tầm tã. Và cơn mưa tầm tã ấy chấm dứt quyển A Farewell to Arms. Suốt quyển tiểu thuyết này, ta nghe mưa rơi liên miên… Đầu mùa đông, một cơn mưa thường xuyên trở về (trang 8). Ngoài kia sương mù biến thành mưa và trong chốc lát, mưa rơi dầm dề và ta nghe mưa rơi thánh thót trên mái nhà (trang 99). Nhưng ngoài kia mưa vẫn rơi (trang 100). Đêm ấy, trời trở lạnh và ngày hôm sau, mưa rơi…mưa rơi tầm tã (trang 112). Sương biến thành mưa… Trời đã mưa và tôi có thể ngửi đường phố ướt át (trang 119). Mưa rơi trong suốt qua làn ánh sáng của nhà ga (trang 129). Chúng tôi chia tay giã từ, chúng tôi bắt tay nhau và họ rời đi. Cả hai đều cảm thấy đau buồn. Khi xe lửa lên đường, chúng tôi đều đứng ở hành lang xe lửa. Tôi nhìn ánh sáng của nhà ga và sân ga khi tàu chạy. Trời vẫn còn mưa và chẳng bao lâu cửa sổ ướt hết cả, chúng tôi chẳng thấy được gì nữa (trang 126). Mưa đã rơi trên rặng núi (trang 127). Bão suốt ngày. Gió kéo mưa và mọi nơi đều là vũng nước và bùn (trang 144). Mưa rơi không ngừng (trang 146). Mưa lại bắt đầu rơi (trang 147). Mưa đang rơi ngoài kia (trang 149). Ngoài kia, mưa rơi tầm tã (trang 150). Chúng tôi lê bước qua thành phố hoang trống dưới cơn mưa (trang 151). Mưa vẫn còn rơi (trang 152). Mưa rơi suốt đêm (trang 152). Trời lại phủ mây và một cơn mưa nhẹ bắt đầu rơi (trang 163). Mưa lạnh (trang 178). Trời mưa, tôi đứng dưới mái ga cho đến lúc tàu hoả khởi hành (trang 188). Ngoài khung cửa sổ, mưa đang rơi (trang 192). Đêm ấy, một cơn bão nổi dậy, tôi thức giấc nghe mưa đập vào kính cửa (trang 294). Tôi không thể nhìn mặt hồ, chỉ đen tối và trời mưa nhưng mà gió nhẹ thổi hơn (trang 206). Trời đã sáng hẳn và một cơn mưa bụi rơi (trang 214). Mưa bắt đầu rơi ban đêm… Mưa rơi suốt buổi sáng… Mưa rơi trên những đỉnh núi… Ngoài kia, chúng ta có thể nghe mưa rơi (trang 234-235).

Mưa tiếp tục rơi trên trang 236, trang 249, trang 251, trang 252, trang 253… Và quyển truyện chấm dứt với những dòng này:

Sau đó, tôi đi ra ngoài và rời bệnh viện, rồi trở về lữ quán dưới cơn mưa [3] .

Mưa rơi ướt hết mấy trăm trang giấy A Farewell to Arms. Tay ta cầm dở từng trang giấy cũng thấm nước mưa. Mắt ta cũng thấm nước mưa. Và mưa cũng rơi vào cõi lòng khô hạn của ta.

Những giọt mưa này không phải là những giọt mưa dịu hiền, thi vị, thướt tha và xinh đẹp; những giọt mưa của A Farewell to Arms không là những giọt mưa nên thơ của Karel Capek (trong The Gardener’s Year) của Edna St. Vincent Millay (trong Renescence, dòng thơ 119), của Walt Whitman (trong The voice of the Rain), của Frances Shaw (trong Who loves the Rain), Dora Sigerson (trong April, stanza 1), Coates Kinney (trong Rain on the Root, stanza 1)… Những giọt mưa trong A Farewell to Arms là những giọt mưa ờ Pago – Pago trong truyện “Rain” của S. Maugham hay là những giọt mưa của thi hào Edith Sitwell trong “Still talls the Rain” (The Raids, 1940, Night and Dawn).

Mưa vẫn còn rơi

Tối như nhân gian, đen như sự ly tán của chúng ta

Mù như một nghìn chín trăm bốn mươi cây đinh

Đóng vào thập tự giá [4]

Cơn mưa tầm tã ở Pago - Pago đã rơi xuống xác chết của mục sư Davidson. Cơn mưa của Edith Sitwell rơi xuống một thế giới điêu tàn khói lửa. Và cơn mưa liên miên trong A Farewell to Arms đã rơi xuống lúc Frederic Henry rời người yêu để ra trận tuyến, lúc đoàn quân chiến bại của Ý đang triệt thoái, lúc Frederic Henry bị bắt, lúc Catherine từ giã cõi đời…

Ở đây, mưa là hình ảnh của Ly Tán, của Đổ vỡ, của Phân ly, của Phũ phàng, của Cay đắng, của Bi thống, của sự Chết…

“Tại sao em lại sợ mưa?”

“Em không biết”

“Hãy nói cho anh nghe”

“Thôi đừng anh ạ”

“Kể cho anh nghe đi”

“Không”

“Nói đi em”

“Thôi được. Em sợ mưa vì đôi khi em thấy em chết dưới cơn mưa, anh ạ.” [5]

Mưa còn là hình ảnh của Thời gian - bước đi khốc liệt của thời gian.

Một lúc sau, cả hai đứa tôi hoàn toàn im lặng và chúng tôi có thể nghe mưa rơi.

Dưới đường, một chiếc xe bóp còi.

“Sau lưng, ta luôn luôn nghe

Xe thời gian đã đến vội vàng” [6]

Trong A Farewell to Arms, Mưa tượng trưng sự hiện diện của cái gì thảm khốc nhứt, mãnh liệt nhất, bi đát nhất, tuyệt đối nhất mà chúng ta không thể định nghĩa được: thảm khốc, mãnh liệt, bi đát, tuyệt đối chỉ là những tĩnh từ…

“Nhân vật” chính trong A Farewell to Arms cơn mưa liên miên từ trang đầu tới trang cuối (truyện Rain của Somerset Maugham cũng thế).

Dưới cơn mưa tầm tã này, một số nhân vật phụ thoáng hiện; ta thấy chàng Frederic Henry và nàng Catherine Barkley, Rinaldi, bá tước Greffi và một số người khác. Tất cả những nhân vật này đều đi lê thê dưới cơn mưa giá buốt. Họ tự nhủ với nhau rằng phải tìm một nơi chốn nào đó để mà về… [7] Họ bơ vơ dưới mưa lạnh. Họ tha thiết muốn tìm về một mái nhà nào đó… Nhưng về đâu?

Tất cả bi kịch thê thảm nhất đời này là con người không biết mình sẽ đi về đâu. Mái nhà tranh vách đất và lũy tre xanh ở phương hướng nào? Chiều mưa… đi về đâu? Không thể đứng ngóng mãi ở Giang đầu vì rừng chiều âm u rét mướt.

A Farewell to Arms dựng lên một bi kịch tượng trưng cho cuộc đời: dưới con mưa phũ phàng, Frederic Henry và Catherine Barkley ôm choàng nhau âu yếm đi tìm một mái nhà nào đó… Nhưng rồi nàng bỗng nhiên chết dưới mưa, bỏ lại một mình chàng bơ vơ đau đớn trong giá buốt; một bóng bên trời, chàng bơ phờ lê bước và không biết đi về đâu… Và mưa vẫn rơi thản nhiên…

Đại ý của A Farewell to Arms là thế… trọn quyển A Farewell to Arms, Hemingway dựng lên hình ảnh của Mưa … và dưới cơn mưa ấy, Hemingway dựng thêm hình ảnh của con người: con người đi dưới mưa.

Giữa lúc khói lửa tơi bời, chàng và nàng gặp nhau: Frederic Henry và Catherine Barkley gặp nhau tại mặt trận 1917 – 1918 ở Ý đại Lợi. Frederic Henry là một chàng thanh niên Mỹ, làm trung úy trong quân đội Ý; chàng làm việc tại bệnh viện chiến địa. Catherine Barkley là một thiếu nữ người Anh, làm nữ cứu thương. Mái tóc nàng vàng hoe, da nàng hung đôi mắt nàng xám và nàng đẹp tuyệt trần (trang 18). Nàng đã từng yêu tha thiết một chàng trai, hai người sắp cưới nhau nhưng rồi chàng ấy chết tại mặt trận Somme và tự độ ấy, nàng sống cô đơn trong bốn vách tường vôi trắng của bệnh viện. Rồi một hôm, có chàng trai trẻ đến nơi này: chàng này không phải người xưa mà là chàng trai khác, tên là Frederic Henry. Frederic và Catherine gặp nhau. Frederic thấy gái đẹp thì vội tán tỉnh ngay. Chàng chỉ muốn đùa cợt. Còn nàng thì không bao giờ nghĩ thế. Nàng yêu chàng với lòng chân thành của một thiếu nữ cô đơn và đau khổ. Lúc tôi ôm nàng bỗng nhiên nàng run lên. Tôi ôm chặt nàng vào tôi và nghe tim nàng máy động. Môi nàng mở ra và đầu nàng xoay trở lại gục vào vai tôi mà khóc. (trang 25). Tôi biết tôi không hề yêu Catherine Barkley và cũng không hề nghĩ đến việc yêu nàng (trang 28). Thế rồi Frederic bị thương ở chiến trận, được đưa về bệnh viện ở Milan, rồi chàng gặp lại Catherine. Lần gặp gỡ này, bỗng nhiên chàng lại cảm thấy nàng đẹp nhất đời và không hiểu sao, vừa mới gặp nàng chàng yêu nàng ngay. Mọi sự bắt đầu đảo lộn bên trong lòng chàng (trang 74). Chàng đã không muốn yêu nàng, nhưng bây giờ chàng đã yêu nàng say đắm, mọi sự đảo lộn trong đầu óc chàng và chàng cảm thấy tuyệt diệu lạ lùng (trang 75). Từ đây, một thiên tình sử thơ mộng bắt đầu… chàng và nàng yêu nhau đắm đuối, chàng và nàng ôm nhau, hôn nhau nồng nàn giữa đường phố, dù là dưới cơn mưa phũ phàng, dù là khói lửa chiến tranh hừng hực vây phủ mười phương. Dù sống giữa điêu tàn tang tóc, dù sống giữa cơn mưa giá buốt của thời đại, họ cũng thấy cuộc đời tươi đẹp và có ý nghĩa. Chúng mình vẫn luôn luôn cảm thấy vui sướng khi chúng mình ở chung nhau (trang 118). Nhưng họ không thể ở chung nhau mãi, vì chàng đã hết bịnh và phải trở ra mặt trận. Trước ngày trở lại trận tuyến, chàng có hỏi rằng nàng định sẽ sanh con ở nơi nào. Nàng khuyên chàng không nên bận tâm. Rồi chàng cũng tạm bỏ qua để mà lên đường. Chiến tranh đã đến giai đoạn quyết liệt và tất cả đều trở nên hỗn độn, đoàn quân Ý ở vùng Udine và Gorizia đang triệt thoái; Frederic Henry có mặt trong đoàn thoái quân. Chàng bị bắt vì tội tháo lui bỏ trốn nhiệm vụ và bị tình nghi gián điệp. Họ vừa sắp đem chàng xử bắn thì chàng tung chạy nhảy xuống sông mà trốn thoát. Từ đây chàng không muốn dính líu gì với chiến tranh nữa. Chàng tìm gặp lại Catherine. Đêm ấy, chàng và nàng trốn bỏ nước Ý mà chèo thuyền qua Thụy Sĩ để không ai có thể tập nã chàng. Họ từ bỏ chiến tranh và đi tìm thanh bình riêng rẽ cho lứa đôi (Separate Peace). Từ đây, ở Thụy Sĩ, miền tuyết trắng chập chùng, chàng sẽ cố gắng quên chiến tranh để sống cùng Catherine trong thiên đàng của Ân ái. Ôi, hạnh phúc triền miên… Hai đứa tôi sống một cuộc đời tuyệt diệu. Tháng giêng và tháng hai trôi qua nhẹ nhàng và mùa đông đẹp lắm; chúng tôi hạnh phúc vô cùng (trang 234). Đầu mùa xuân năm ấy, một buổi sáng, Frederic thức dậy vào khoảng ba giờ, chàng nghe Catherine vặn mình trên giường, chàng đưa nàng vào nhà thương vì ngày sanh hạ của nàng đã đến rồi. Mưa rơi lả tả… vì sanh hạ quá khó khăn, nàng kiệt lực và tắt thở vào tối hôm ấy. Catherine chết. Đứa nhỏ cũng chết. Chàng không thể hiểu được gì cả. Tần ngần và bơ thờ, chàng lê bước trong đêm tối giá lạnh. Mưa vẫn thản nhiên rơi lả tả. Một bóng bên trời…


4.

Clément Rosset là một triết gia rất trẻ (hai mươi tuổi) thuộc thế hệ mới ở Pháp. Có người gọi ông là triết gia của đợt sống mới. Ông đưa ra một thái độ mới trước cuộc đời. Ông đặt tên triết lý của ông là triết lý bi đát (Philosophie tragique), ông mặc một màu sắc mới, một định nghĩa mới cho chữ Tragique. Theo ông, Tragique chỉ là một tiếng để gọi một cái gì mà ta không thể giải thích được, nous pourrions donner comme première définition du Tragique la révélation d’un soudain refus radical de toute idée d’interprétation (La Philosophie tragique, trang 7); Tragique là một huyền nhiệm, nous considérons le tragique comme un mystère que l’on ne peut constater (op. cit. trang 19).

Tragique là cái bất chợt#, bỡ ngỡ tự bản chất (le surprenant par essence, cf. trang 18-20). Con người bi đát (l’homme tragique) luôn luôn cảm thấy bỡ ngỡ, ngạc nhiên như một đứa trẻ, khi nào họ không bỡ ngỡ, ngơ ngác, ngạc nhiên, họ không còn là con người bi đát nữa. L’homme tragique se découvre soudain sans amour, sans grandeur et sans vie: et voilà la situation dont il ne pourra jamais donner d’interprétation, devant laquelle il aura perpétuellement l’étonnement, la surprise de l’enfant à qui, pour la première fois, on a refusé un jouet. Si sa stupéfaction cesse, il n’est plus tragique (trang 20).

Con người bỗng nhiên bỡ ngỡ không hiểu gì cả. Hai người bạn cùng đang đi chơi chung với nhau, bỗng nhiên một người bị xe đụng chết. Người còn sống bỡ ngỡ, kinh ngạc. L’homme tragique s’étonne au plus haut degré, et ne peut jamais cesser de s’étonner (trang 21). Hôm qua, đang thấy cô còn ngồi học trong lớp, bỗng nhiên hôm nay, đến lớp dạy thì nghe cô đã tự tử. Tôi ngạc nhiên vô cùng. Le tragique est sera toujours le surprenant par essence (trang 18).

Tôi đã từng tin tưởng vào Tự do, Dân chủ, Bình đẳng, Lẽ phải v.v..: Bỗng một hôm, tôi thấy những danh từ thiêng liêng này hoàn toàn trống rỗng, vô nghĩa và không hơn gì một đống phân.

Ta ngạc nhiên vô cùng. Cái buổi ban đầu xa xưa ấy, ta đã dâng trọn vẹn tâm hồn mình cho ai, ta đứng bao nhiêu giờ để được thoáng nhìn ai đi học về; bao nhiêu đêm, ta nhìn trăng không ngủ và nằm trăn trở thao thức suốt đêm. Thế rồi một hôm ta lặng lờ nghẹn thở và ngạc nhiên sửng sốt vì gió đã ngừng thổi trong lòng. L’homme tragique se découvre soudain sans amour, sans valeur et sans vie: voilà le bilan tragique, et voilà notre surprise éternelle (trang 22).

Trước sự bi đát (Le tragique hay le surprenant par essence), trước sự mặc khải bi đát ấy (révélation tragique), ta ăn nói làm sao để đáp trả? Ba ý niệm cụ thể hoá sự phản ứng tất nhiên của con người trước sự mặc khải bi đát (révélation tragique hay surprise éternelle).

Ba ý niệm ấy là: “không thể hoà giải được” (l’irréconciliable) “không trách nhiệm” (l‘irresponsable) và “cần thiết” (l‘indispensable). Ý niệm “ngạc nhiên bỡ ngỡ” chứa đựng ý niệm “không thể hoà giải được”, bởi vì nếu ta hòa giải được với sự kinh ngạc thì nó không còn kinh ngạc nữa. Ý niệm “không thể hoà giải được” hàm chứa ý niệm “không trách nhiệm” bởi vì nếu có một sự trách nhiệm thì chính sự trách nhiệm giải thích điều ngạc nhiên mà điều ngạc nhiên có thể giải thích được thì nó không còn là ngạc nhiên nữa (trang 37) và chính sự ngạc nhiên đó rất cần thiết cho ta, nó tạo ra cho ta một niềm vui trọn vẹn và đời trở nên đáng sống. Je n’ai jamais été si grand, si digne, si confiant en moi même, si heureux de vivre (trang 63-64).

Từ những nhận định trên, Rosset làm một sự tẩy uế triết học (purification philosophie); ông từ khước tất cả những triết thuyết từ trước đến bây giờ, từ Socrate đến Sartre, Camus; ông chỉ trích ý niệm Hạnh phúc (Bonheur), Vô phúc (Malheur); ông chỉ trích Luân lý (Morale). Ý niệm Bonheur khước từ ý niệm irréconciliable irresponsable; ý niệm Malheur chỉ là biến thể của ý niệm Bonheur. Morale khước từ Tragique.

Pour nous, tous ceux qui considèrent que l’homme est inconnu au tragique, tous ceux qui ont le sentiment d‘inconnu face au tragique, tous ceux – là sont réputés moralistes (trang 151).

Con người muốn sống cho ra hồn, muốn cho cuộc đời mình có ý nghĩa thì phải nhìn thẳng vào Tragique. Si nous voulons retrouver la joie, il faut commencer par retrouver le tragique (trang 164).

Trốn bỏ, khước từ, phủ nhận Tragique là trốn bỏ ý nghĩa thực sự của cuộc đời.


5.

Trong A Farewell to Arms, Mưa biểu hiệu “sự có mặt” của Bi đát (la “présence” tragique). Mưa không phải là Bi đát mà chỉ dùng để biểu hiện sự có mặt của Bi đát. Nếu nhìn theo thị quan của Clément Rosset, ta sẽ thấy trong A Farewell to Arms tiềm tàng “triết lý bi đát” (“la philosophie tragique”).

Theo Clément Rosset Tragique là gì? Không thể giải thích, định nghĩa được. Tự tra hỏi về tragique là phủ nhận tragique.

Je ne peux mieux exprimer ma conception qu’en disant que s’interroger sur le tragique, c’est nier le tragique, qui est ce sur quoi on ne peut s’interroger, la seule question qu’il soit impossible à l’homme de poser (La Philosophie tragique, trang 19).

Tragique mà được biện minh, tragique mà được giải thích thì không còn là tragique nữa.

Tragique justifié, tragique interprété, ne voiton pas que ce n’est plus le tragique? (trang 19).

Tragique là gì? Qu’est – ce que le tragique? Tragique là cái gì mà chúng ta không thể giải thích được và định nghĩa được. D’abord donc, se garder d’interpréter (trang 7).

Bởi ta không thể định nghĩa Tragique, bởi Tragique không thể nào định nghĩa được, nên ta có thể gọi Tragique là sự khải thị về một sự từ khước triệt để và đột nhiên trước tất cả ý niệm giải thích (la révélation d’un soudain refus radical de toute idée d’interprétation).

Ta nhớ đến Frederic Henry. Trong gian phòng lạnh lẽo, ngồi chờ đợi bàng hoàng, Frederic Henry đã nghĩ gì?

Ta chết. Ta chẳng hiểu được gì cả. Ta chẳng có giờ để biết, để học. Họ ném ta vào đó và bảo cho ta biết kỷ luật, luật lệ và vừa thoạt sơ suất, họ đã giết ta. Hay là họ giết ta không lý do như Aymo hay là làm cho ta bị bệnh giang mai như Rinaldi. Dù sao, sau cùng, họ cũng giết ta. Không thể ngờ gì nữa. Hãy chờ và sẽ đến lượt ta [8] .

Ta chẳng hiểu gì cả. You did not know what it was about. On ne comprend rien. Đó là tragique. Ta không thể giải thích và định nghĩa Tragique, nhưng ta có thể diễn tả (faire une décription) bằng cách phân tích tâm lý như sau: không có situations tragique mà chỉ có mécanisme tragique, nghĩa là ý niệm tragique nằm gọn trong tương quan giữa hai thế (dans un rapport entre deux situations), nghĩa là ý niệm tragique là sự diễn bày về sau của sự lướt qua từ một trạng thái này đến một trạng thái khác (la représentation ultérieure du passage d’un état à un autre). Xin dở lại trang đầu của chương nhứt trong quyển Philosophie tragique của Clément Rosset (Presses universitaire, 1960): il faut bien préciser que le tragique n’apparait que lorsque nous nous représentons – après coup - le mécanisme tragique, et non pas lorsque nous le vivons (trang 7-8).

Chẳng hạn như lúc Frederic Henry bị bắt và nhìn thấy những sĩ quan đào ngũ bị xử tử hình. Chúng tôi đứng dưới mưa và bị đem ra cật vấn từng người một, rồi bị bắn (trang 175).

Trong trường hợp trên, Frederic Henry là một người lãnh hội được cái “bi đát” của sự chết (le tragique de la mort), không phải bởi vì chàng đã thấy xác chết, mà bởi vì chàng đã thấy những người mà chỉ trong một thoáng giây họ đã sống, rồi thì chết, bởi vì sự bi đát (le tragique) đã dàn bày trước mắt chàng như là mécanisme chứ không phải là situation – Bi đát không phải là những xác chết của những người sĩ quan đào ngũ, bi đát là đống thịt đầy máu kia cũng chính là đồng thịt của những người sĩ quan bị xử tử khi còn sống; nghĩa là ý niệm của sự lướt qua từ trạng thái sống cho đến trạng thái chết mà sau đó chàng đã gợi tưởng lại rằng họ đã chết: “sự diễn bày về sau của sự lướt qua từ một trạng thái này đến trạng thái khác” (la représentation ultérieur du passage d’un état à un auire ). Đó là mécanisme tragique.

Frederic Henry đã nhìn thấy cái bi đát của sự chết một cách thuần túy và trọn vẹn nhất, bởi vì chàng không quen biết những người sĩ quan đào ngũ này, bởi vì chàng chỉ biết họ trong lúc họ chết. Ta thấy rằng cái mécanisme tragique trên chỉ làm ta rùng mình bởi vì ta hình dung nó như một thực thể đông lại (une entité figée) ở ngoài thời gian. Nous découvrons que la vision du mécanisme tragique ne nous fait horreur que parce que nous nous le représentons comme une entité figée, en dehors du temps (trang 11).

Từ những phân tích trên, ta có thể kết luận rằng Bi đát là một cái gì không thể giải thích được. Bi đát “cái bắt chợt tự bản chất” (le surprenant par essence). Đứng trước le surprenant par essence, tất cả những giá trị đều bị phá hủy. Sau khi khám phá ra bi đát, tất cả những giá trị đều bị xét lại. Après la découverte du tragique, toutes les valeurs sont à reconsidérer (trang 20). Cuối quyển A Farewell to Arms, ta thấy Frederic Henry đi dưới mưa lạnh: chàng cảm nghĩ những gì? Không, tình người không còn, sự vĩ đại của con người không còn, cuộc đời không còn. Tất cả đều không còn nữa. Non, l’amour humain n’ est pas, la grandeur humaine n’est pas, la vie – entendons la vie telle que nous ne pouvons manquer de l’imaginer lorsque nous sommes joyeux, la vie toujour existante et toujours jeune – la vie n’est pas (La Philosophie tragique, trang 20).

Frederic Henry kinh ngạc vô cùng. Chàng mở đôi mắt bỡ ngỡ, bỡ ngỡ… Aymo chết. Rinaldi bị bệnh giang mai. Catherine chết. Rồi mình sẽ chết. Chàng kinh ngạc vô cùng. Chàng không biết gì cả. You did not know what it was about.

Chàng không kịp biết. You never had time to learn (A Farewell to Arms, trang 252). On
n’apprend pas le tragique (Philosophie tragique, trang 21-22) có ai học được chữ ngờ? You never had time to learn. On n’apprend pas le tragique…


6.

Con người bi đát (L’homme tragique) bỗng nhiên cảm thấy sững sờ kinh ngạc. Trước cuộc đời, từ đây Frederic Henry mở đôi mắt bỡ ngỡ, ngơ ngác, sửng sốt, kinh ngạc… Surprise éternelle (Clément Rosset, trang 22). Chàng ăn nói làm sao đây trong niềm kinh ngạc vô biên kia? Phản ứng của chàng? Từ đây, lòng chàng đã xao xuyến, chàng biết chắc không bao giờ quên được bao nhiêu hình ảnh chua xót kia. Từ đây, trước cuộc đời miên man kia, lòng chàng không còn được gió thổi vi vu như dạo nào. Chàng không thể giải hoà với cuộc đời này nữa. Irréconciliable… Ý niệm Irréconciliable là đặc tính siêu hình đầu tiên của Bi đát. Thế nào là Irréconciliable?

Ba giai đoạn dẫn đến ý niệm Irréconciliable. Đầu tiên, ta thấy tính chất “không vượt nổi” (insurmontable), nghĩa là đứng trước nghịch cảnh, lần đầu tiên, ta tự cảm thấy không thể nào giải quyết được, không thể nào thắng được nghịch cảnh sừng sửng ấy, lần đầu tiên, ta phải dừng chân lại, không thể nào bước đi nữa, lần đầu tiên, ta phải nhìn lại, xét lại quãng đường. Mộng tưởng mênh mang của tuổi trẻ, hoài vọng hiên ngang của hoa niên đã dừng sững lại trước thực tại bi đát kia. Nous nous révélons pour la première fois absolument incapables de trouver une solution, de vaincre l‘obstacle qui s’ est dressé devant nous. Pour la première fois, nous sommes arrêtés, nous ne pouvons parvenir à continuer dans la voie sur laquelle nous étions engagés, pour la première fois nous sommes amenés à reconsidérer notre route. Tel est le premier degré du tragique, et l ‘on voit, je pense, toute sa gravité: il s‘agit de la remise en question de toute une croyance, la croyance à la victoire, l’espoir que toujours, dans la voie royale de la jeunesse que nous nous étions tracée, nous surmonterions les traitres obstacles qu’on placerait sur notre chemin; la découverte première de l’échec: ici, on ne passe pas (Clément Rosset, La Philosophie tragique, trang 25).

Từ tính chất “không thể vượt nổi” (insurmontable), ta đi đến tính chất “không chữa được” (irrémédiable). Ta đã sa bẫy, chẳng những ta không thể vượt nổi nghịch cảnh, ta lại còn thấy không còn đường lối nào để đi nữa. Ta bó tay bó gối vì không thể động đậy gì được cả. Ta đã bị hãm vào đường cụt một chiều duy nhất. Lúc trước, đứng trước nghịch cảnh không thể vượt nổi, ta tưởng là rồi đây sẽ còn có lối khác, nào ngờ bây giờ hết phương rồi, parce qu’il nexiste pas de remède à ce que nous prenions tout d ‘abord pour une insuffisance passagère (trang 25-26).

Giai đoạn thứ ba và cuối cùng là sự khám phá ra ý niệm “irréconciliable” (không thể hoà được). Sau lần thất bại, ta đã biết rằng không thể vượt nổi (insurmontable), và không thể chữa nổi (irrémédiable) nhưng bây giờ ta lại rõ thêm rằng sự thất bại “không thể vượt nổi” và “không thể chữa nổi” kia lại cũng là sự thất bại phổ quát và toàn bộ (cet échec insurmontable et irrémédiable signifie pour nous l’ échec universel et total), Một lần bại, một lần lỡ bước sa chân, thì về sau, dù thế nào đi nữa, ta cũng không thể mỉm cười trọn vẹn như xưa. Trót vì tay đã nhuốm chàm… Cet échec-là nous a marqués d ‘une façon indélébile: telle la clef de Barbe-Bleue, il résistera à toutes les tentatives auxquelles nous le soumettrons pour tenter d‘effacer enfin la trace de mort qu‘il a imprimée dans notre âme (Philosophie tragique, trang 26-27).

Bây giờ xin trở lại A Farewell to Arms, ta thấy Frederic Henry đã đi qua ba chặng liên tiếp: “không thể vượt” (l’insurmontable), “không thể chữa” (l’irrémédiable) và “không thể hoà” (l‘irréconciliable).

Đứng trước cái chết của Aymo, của những người sĩ quan đào ngũ, cũng như của bao nhiêu người lính khác, tóm lại là đứng trước chiến tranh tàn khốc, Frederic Henry cảm thấy tần ngần, ngơ ngác trước bao nhiêu tang tóc bất ngờ, chàng nhìn thấy người chết; chàng sững người ra vì chàng biết rằng kẻ ấy mới sống đây mà bây giờ bỗng nhiên phải chết, không còn sống nữa; đứng trước cảnh chết ấy, chàng đã cảm thấy đó là một cái gì mà “không thể vượt được” (insurmontable). Chàng chưa hiểu cái chết (la mort) là gì; nhưng bỗng nhiên chàng đứng trước một người chết (un mort). Cái chết, đối với chàng, chỉ mới là thảm hoạ đối với cá nhân, chứ chưa là thảm hoạ chung. Nous nous représentons la mort comme une catastrophe pour l’individu, non encore comme la catastrophe (Philosophie tragique, trang 27).

Đứng trước một nghịch cảnh, mặc dù không thể nào vượt được, nhưng chàng chưa thấy đó là một sự thất bại đối với riêng chàng. Nous découvrons un obstacle, insurmontable certes, mais non encore un échec (op. cit. trang 27).

Nhìn thấy những người sĩ quan kia bị xử bắn, chàng chỉ mới sửng người và thấy cái chết là điều “không thể vượt được”, nhưng đến lúc họ sắp đem xử bắn chàng, chàng mới vùng vẫy bỏ chạy và nhảy xuống sông mà trốn thoát. Chàng trốn thoát được và trở về với Catherine Barkley. Từ đây, chàng và Catherine Barkley từ bỏ chiến tranh, trốn chiến tranh. Đối với chàng nàng, mặc dù chiến tranh là một mối chướng ngại không thể nào vượt qua được, nhưng cũng chưa hẳn là không phương cứu chữa, un obstacle, insurmontable certes, mais non encore un échec, cf. trang 27). Bởi vì từ nay chàng và nàng sẽ trốn sang Thụy Sĩ, quê hương của rừng núi chập chùng; chàng và nàng sẽ gây dựng Thanh bình riêng biệt (Separate Peace) của hai đứa đầu xanh ở riêng một cõi trời phiêu bạt.

Chàng và nàng cảm thấy hạnh phúc muôn vàn. Đã xa rồi bao nhiêu thảm khốc của chiến tranh, đã xa rồi bao nhiêu bi thương của thời đại. Lúc nhảy xuống sông để trốn thoát, Frederic Henry đã được giòng sông lạnh kia gột rửa bao oán hờn và lúc đi trốn thoát trên xe lửa, chàng đã nghĩ rằng giờ đây chàng hết trách nhiệm. Tôi đã tự do. Tôi xin chúc họ được tất cả may mắn. Họ xứng đáng lắm, họ là những kẻ tốt, những kẻ anh hùng, những kẻ bình tĩnh và những kẻ tế nhị thông minh [9] . Tôi không phải sinh ra để nghĩ ngợi, để suy nghĩ. Tôi sanh ra để ăn. Trời, vâng. Ăn, uống và ngủ với Catherine. Có lẽ đêm nay. Không, không thể đâu. Nhưng tối mai… và một bữa cơm ngon và những tấm trải giường… và không bao giờ phải lên đường nữa… chỉ trừ hai đứa chung nhau [10] .

Dù ở trong trường hợp nào, Frederic Henry cũng cố gắng quên chiến tranh. Chiến tranh đã xa rồi. Có lẽ không có chiến tranh. Không có chiến tranh ở đây. Tôi biết rằng chiến tranh đã xong rồi đối với tôi. Nhưng tôi không có cảm giác rằng nó đã hoàn toàn xong. Tôi có cảm giác của một đứa con trai trốn học đang nghĩ đến những gì đang xảy ra vào một giờ nào đó ở trường [11] .

Anh không muốn nghĩ đến chiến tranh nữa. Nó đã xong rồi đối với anh (trang 223).

Dù chàng hết sức cố gắng quên chiến tranh, dù chàng có quên đi nữa, trận mưa phũ phàng kia vẫn liên miên theo đuổi hình bóng chàng.

Hai đứa tôi đã sống một đời tuyệt diệu. Chúng tôi sống bên nhau trọn tháng giêng và tháng hai. Mùa đông tuyệt vời quá và chúng tôi hạnh phúc vô cùng… Một đêm trời bỗng bắt đầu mưa. Trời mưa suốt buổi sáng và làm tuyết thành bùn và triền núi trở nên thê lương buồn thảm. Mây bay lênh đênh trên hồ và trên thung lũng. Mưa rơi bên đỉnh núi. Hai đứa tôi có thể nghe mưa rơi ngoài kia… [12]

Hai đứa tôi sống một cuộc đời tuyệt diệu… Một đêm, trời bỗng bắt đầu mưa… Thế rồi bỗng mưa… Nàng đau. Chàng đưa nàng đi nhà thương để sanh hạ đứa con đầu lòng. Thế rồi nàng chết vì sanh đẻ quá khó khăn. Thế rồi nàng chết. Trời mưa. Nàng chết. Chàng bỡ ngỡ ngơ ngác không hiểu gì cả. Nàng chết. Chàng đứng lặng người. Nàng chết. Chàng nói giã từ với một bức tượng. Rồi chàng bước trở về lữ quán dưới cơn mưa [13] .

Một hôm nào thoát chết, trên đường đi đến Stresa để tìm gặp em Catherine Barkley, chàng đã nghĩ rằng chàng sẽ quên chiến tranh. Chàng đã làm Thanh bình riêng biệt. I had made a separate peace (trang 88). Chàng đã gặp nàng, chàng và nàng cùng nhau chạy trốn sang Thụy Sĩ để tận hưởng Thanh bình riêng biệt. Hai đứa yêu nhau say đắm. Từ đây, khói lửa có mù trời, chiến tranh có mù đất, cũng không hề gì bởi vì hai đứa mình đã yêu nhau, bởi vì anh cùng em đã làm Thanh bình riêng biệt (Separate Peace). Thế rồi nàng chết. Chàng đã lầm. Hết thanh bình riêng biệt. Hết phương cứu chữa. (Irrémédiable). Trốn chướng ngại này để rồi gặp chướng ngại khác. Trốn chiến tranh, nhưng rồi lại gặp sự ly tán của mối tình kia. Nàng chết. Thế là hết. Cuộc đời là thế.

Đời chàng từ đây trở đi không còn được trọn vẹn như xưa. Nụ cười chàng sẽ mang chua xót, đôi mắt chàng từ đây sẽ vĩnh viễn đọng lại buồn đau vô hạn… Trước cuộc đời, từ nay, không thể nào làm hoà lại được (irréconciliable). Maintenant nous n’en sommes plus à nous demander si l’obstacle que nous avons rencontré est irrémédiable et définitif, mais nous nous apercevons qu’il signifie la perte dans tous les domaines de la vie humaine: que toutes les tentatives que feront les diverses joies pour nous réconcilier à la joie sont condamnées d’avance à l’échec (Philosophie tragique, trang 28-29). Quyển A Farewell to Arms chấm dứt lúc Catherine Barkley chết và chàng bơ phờ trở về lữ quán dưới cơn mưa.

Thử nhìn theo thị quan của Clément Rosset, ta sẽ thấy những nhân vật trong tác phẩm chính của Hemingway mang những thái độ trước Bi đát như sau: không thể hoà (irréconciliable) trong A Farewell to Arms ; không trách nhiệm (irresponsable) trong The Sun Also Rises; cần thiết (indispensable) trong The Old Man and the Sea.

Tôi đã mượn vài khía cạnh của Triết lý Bi đát Clément Rosset để phân tích tác phẩm A Farewell to Arms. Đây chỉ là một cách trong muôn ngàn cách để nhìn một tác phẩm… A Farewell to Arms là một văn phẩm vĩ đại. Muốn nhìn trọn tầm vóc của A Farewell to Arms, tôi phải nhìn bằng muôn ngàn cách hợp lại, chứ không chỉ có một cách như trên. Có tham vọng thu gọn tầm vóc của A Farewell to Arms trong một cách nhìn như tôi đã làm ở trên thì thực là điều vô lý. Đem một hệ thống triết lý để nhìn vào một văn phẩm vĩ đại là nhốt tù văn phẩm ấy và là một công việc hoàn toàn vô giá trị.



[1]In the late summer of that year we lived in a house in a village that looked across the river and the plain to the moutains (E. Hemingway, A Farewell to Arms, chương 1, trang 7).
[2]At the start of the winter came the permanent rain (A Farewell to Arms, chương 1 trang 8).
[3]After a while I went out and left the hospital and walked back to the hotel in the rain (A Farewell to Arms, chương 41, trang 256, Penguin Books, 1935).
[4]Edith Sitwell: Still falls the Rain.
Dark as the World of man, black as our loss.
Blind as the nineteen hundred and forty nails.
Upon the cross
[5]“Why are you afraid of it?”
“I don’t know”
“Tell me”
“Don’t make me”.
“Tell me”,
“No”.
“Tell me”.
“All right. I’m afraid of the rain because sometimes I see me dead in it”.
(A Farewell to Arms, trang 100)
[6]After a while we were very still and we could hear the rain. Down below on the street a motor car honked.
“And always at my back I hear.
Time’s winged chariot hurrying near.”
(A Farewell to Arms, chương 23, trang 122)
[7]Everybody ought to have some place to go (trang 116)
Let’s go some place (trang 118).
[8]You died. You did not know what it was about.You never had time to learn. They threw you in and told you the rules and the first time they caught you off base they killed you. Or they killed gratuitously like Aymo. Or gave you the syphilis like Rinaldi. But they killed you in the end. You could count on that, stay around and they would kill you.(A Farewell to Arms, trang 252)
[9] Anger was washed away in the river along with any obligation (…). I was through. I wished them all the luck. They were the good ones, and the brave ones and the calm ones and the sensible ones and they deserved it (A Farewell to Arms, trang 181)
[10]I was not made to think. I was made to eat. My God, yes. Eat and drink and sleep with Catherine tonight maybe. No that was impossible, But tomorrow night and a good meal and sheets and never going away again except together. (A Farewell to Arms, trang 181 - 182)
[11]The war was a long way. Maybe there wasn’t any war. There was no war here, Then I realized it was over for me. But I did not have the feeling that it was really over. I had the feeling of a boy who thinks of what is happening at a certain hour at the school house from which he has played truant (trang 189 – 190).
[12]We had a fine life. We lived through the months of January and February and the Winter was very fine and we were happy (…) In the night it started raining. It rains on all morning and turned the snows to slush and made the mountain side dismal. There were clouds over the lake and over the valley. It was raining high up the mountain (…) outside we could heard the rain.(A Farewell to Arms, trang 234-235)
[13]It was like saying goodbye to a statue. After a while I went out and left the hospital and walked back to the hotel in the rain (trang 256).


Chương ba
Ý thức cô lập – Nỗi quằn quại của Kafka
Di chúc của tôi rất giản dị, tôi van xin anh đốt hết tất cả mọi sự.
(Kafka, “Thư gửi bạn”)

1.

Một thi sĩ đọc tác phẩm của Kafka sẽ hiểu gấp ngàn lần hơn một triết gia, học giả hay nhà phê bình.

Tại sao Kafka khó hiểu?

Bởi vì chúng ta cố gắng tìm hiểu Kafka.

“Gõ cửa đi, cửa sẽ mở.”

Xin đừng gõ cửa, vì cửa không bao giờ mở. Chúng ta đã đi lầm nhà, vì nhà của Kafka không có cửa.

Đi đến Kafka, xin đừng chuẩn bị. Hầu hết những nhà phê bình Âu Mỹ đã viết cả một thư viện vô ích khi họ cố gắng giải thích Kafka. Giải thích Kafka sẽ thất bại như giải thích Hư vô. Trong những nhà phê bình Âu Mỹ, chỉ có Alfred Kazin và Paul – Louis Landsberg là hiểu rõ thái độ của người đọc trước tác phẩm Kafka. Những nhà phê bình khác đã cố gắng trình bày Kafka như là một bài toán khó hiểu, rồi họ cố gắng tìm đáp số. Họ không thể nào tìm đáp số được; vì tác phẩm của Kafka không phải là một bài toán.

Tại sao Kafka viết văn? Kafka không viết. Nỗi cô đơn của Kafka đã viết. Ta không thể nào hiểu được nỗi cô đơn của Kafka, vì mỗi người có một nỗi cô đơn riêng; mỗi người cảm riêng nỗi cô đơn của mình. Không có siêu hình học Kafka; chỉ có nỗi cô đơn Kafka. Không có vấn đề Kafka mà chỉ có kinh nghiệm Kafka; không có “problème” mà chỉ có “expérience” hoặc “sensibilité” hoặc “mystère” (theo nghĩa triết lý của Gabriel Marcel).


2.

Tác phẩm Kafka là kinh nghiệm đau thương của những đêm ngày thao thức bên hố thẳm Hư vô, Hư vô kinh khiếp đã biến đổi Kafka thành một kẻ xa lạ, một người bị lưu đày, một kẻ mất gốc, một người phạm tội và một con vật.

KẺ XA LẠ

Kẻ xa lạ là một người cô đơn tuyệt đối, sống giữa những người thân thuộc như sống giữa những sỏi đá, nhìn mười phương trời chỉ toàn là cỏ khô cháy nắng, đi giữa đời như đi vào một nghĩa địa hoang vu:

Tôi là một người lầm lì, ít nói, trốn vào bản ngã, không thích giao thiệp với đời và bất mãn… Tôi sống trong gia đình, giữa những người thân yêu nhất, thế mà tôi vẫn cảm thấy còn xa lạ hơn là một kẻ xa lạ. Đối với mẹ tôi, trong những năm gần đây, tôi không nói trên hai mươi tiếng mỗi ngày; với cha tôi, tôi chỉ chào hỏi đôi lời thôi. Đối với mấy đứa em tôi, tôi không hề nói chuyện với chúng. Lý do rất giản dị: tôi chẳng có gì để nói (Kafka).

Cha mẹ tôi chơi đánh bài: tôi cảm thấy cô đơn ở bên song thân và cảm thấy xa lạ tuyệt đối… Cha tôi bảo hãy vào bàn mà chơi cho vui… tôi từ chối.

(Nhật ký Kafka, ngày 15 tháng 8)

Vạn vật trơ trơ, thế giới dày đặc, hòn đá lạnh lẽo xa lạ, cảnh sắc muôn màu phủ nhận tôi, bầu trời xanh lơ, đồi kia và cây lá kia xa xôi quá, xa xôi như một thiên đàng đã mất. Kẻ xa lạ là một người bị lưu đày khỏi thiên đàng mến yêu.

KẺ BỊ LƯU ĐÀY

Kẻ lưu đày là một người cô đơn tuyệt đối. Xác ở đây mà hồn ở phương nào. Ở bên kia đám mây hay ở bên kia chân trời, đôi mắt mình vẫn mỏi mòn trông tìm quê hương. Lưu đày bao giờ chấm dứt để mình trở về vương quốc?

Ôi lưu đày và vương quốc! L’Exil et le Royaume… Nhìn về sa mạc mông lung, mình buồn đau hiu quạnh. Cát phẳng lì và không gian hiu quạnh hứa hẹn những gì? Hai dòng nước mắt chảy vào đêm lạnh thiên thu. Lưu đày là lưu đày tâm hồn.

Vô cảm giác. Tôi bị xa lìa mọi vật bằng một khoảng cách mênh mông vô tận.

Tất cả chỉ là tưởng tượng, gia đình, bàn giấy, bạn bè, con đường, tất cả chỉ là tưởng tượng và xa hơn hay gần hơn, người đàn bà. Nhưng sự thực gần gũi nhất là tôi áp đầu tôi vào bức tường của phòng giam nhỏ bé không có cửa sổ mà cũng không có cửa ra vào (Kafka).

Kafka đau đớn và lạnh run. Trong đêm tối vĩnh viễn, Kafka bị ném vào giữa những bức tường phi lý. Kafka ngơ ngác khóc thầm. Ngày xưa khi còn bé thơ… Người cha hung dữ đã hành hạ Kafka; thuở thơ ấu, Kafka đã muốn chết. Tuổi xanh non dại như thế, hư vô đã nỡ nào đuổi theo? Một lần khóc đêm, cậu Kafka bị cha đem ra bỏ ngoài balcon, đứng trước cánh cửa đóng kín, lòng cậu bé ngây thơ đau đớn tủi hận. Suốt mấy đường đời, nẻo nào, phố nào, Kafka vẫn không bao giờ quên được cảnh tượng đau buồn trên. Nét mặt hầm hầm thịnh nộ của người cha vẫn đè nặng hơi thở của Kafka suốt đời. Kafka vẫn nhớ mình đã bị quăng ném ra ngoài và đứng cô đơn trước cánh cửa lạnh lùng kia. Cảm giác đau đớn vẫn theo đuổi Kafka đến chết. Kafka không thể nào quên được. Kafka luôn cảm thấy bơ vơ lạc loài và nghĩ rằng mình là kẻ bị lưu đày khốn khổ tuyệt vọng.

Người Do Thái lang thang ấy không bao giờ được trở về đất hứa:

Chanaan là giải đất hy vọng duy nhất, không có giải đất thứ ba cho con người (Nhật ký Kafka ngày 28 tháng giêng năm 1922).

Bốn mươi năm trời lầm lũi, Kafka không biết bám vào đâu để tìm ra ánh lửa hy vọng giữa nẻo đời. Bám vào đâu? Sông đã chảy xa nguồn; chim trời đã bay xa tổ ấm; con tàu đã vượt trùng dương heo hút, bỏ lại đằng sau một bến hoang sơ mỏi mòn; cây đã ngã và gốc rễ chằng chịt đã
xa lìa lòng đất tương tư…

KẺ MẤT GỐC

Kẻ mất gốc là một người cô đơn tuyệt đối; những chiều mưa u ám, mình bâng quơ đứng nhìn dòng sông xa xôi và bỗng nhiên hoảng hốt, ý thức rằng mình đã bị dòng đời cuốn trôi phũ phàng xa khỏi nguồn đến ngàn vạn dặm.

Kafka là người Do thái, sinh trưởng ở Tiệp khắc. Không có mẫu ngữ, không có quê hương, nói viết bằng ngôn ngữ Đức, sống giữa người Tiệp dưới thời chiếm đóng của Áo Hung, Kafka đã bị mất gốc bên ngoài xã hội và cả bên trong tâm hồn:

Không tổ tiên, không gia đình, không giòng giống, với lòng thèm khát mãnh liệt muốn có tổ tiên, gia đình, giòng giống (Nhật ký Kafka).

Bi kịch Kafka cũng là bi kịch ngàn năm của Van Gogh: Kafka muốn sống tầm thường như mọi người, nhưng không thể nào được, Kafka đã mất gốc ngay từ trong lòng mẹ. Kafka bị trốc rễ và đung đưa chết đắm giữa biển đời. Hai tay chới với kêu gọi cầu cứu:

Hãy để tôi xa nơi đây! Hãy để tôi xa nơi đây!... Bàn tay người đâu?... Ước gì tôi có thể cầm lấy bàn tay người, tôi tin người sẽ không còn quăng ném tôi nữa. Người có nghe tôi không? Có phải người đang ở trong phòng tôi không? Có lẽ người không có ở đây (Kafka, "Hochzeitsvorbereitungen auf dem Lande", trang 272).

Tiếng than của Kafka có vọng đến lưng trời?

Lại bị đày, lại bị đày rất xa, đày rất xa. Núi, sa mạc, những xứ mênh mông… ("Hochzeitsvorbereitungen…" trang 273).

Kafka tuyệt vọng, mọi sự đều thất bại, đời sống gia đình thất bại, tình bạn thất bại, hôn nhân thất bại, nghề nghiệp thất bại, văn chương thất bại. Vì sao?

Vì thiếu đất, thiếu không khí, thiếu lề luật (Nhật ký Kafka, ngày 23-2-1910).

Nhân vật chính trong quyển Das Schloss (Le Château) của Kafka cũng “thiếu đất, thiếu không khí, thiếu lề luật”. Hắn đến một làng để đi tới lâu đài kế cận, nhưng hắn không thể nào đến được lâu đài ấy, Das Schloss là bi kịch của một người đi tìm gốc rễ, sự mạo hiểm riêng lẻ của một tâm hồn đi tìm thánh sủng, của một con người đòi hỏi sự huyền bí tối thượng của những sự vật trần gian này (Albert Camus, Mythe de Sisyphe, tr. 173).

Tại sao Kafka lại cảm thấy mình là kẻ xa lạ, kẻ bị đày, kẻ mất gốc? Kafka không thể hiểu được, Kafka đã làm gì mà phải ra nông nỗi như thế?

KẺ PHẠM TỘI

Ngay từ lúc nhỏ, khi cha bị hành hạ đau đớn, Kafka đã mang mặc cảm tội lỗi. Lớn lên, đi vào cuộc đời, Kafka lại nghĩ rằng mình là một kẻ phạm tội. Tại sao tôi lại bị đày, bị mất nguồn, mất gốc? Tôi không biết. Chắc tôi đã phạm một tội lỗi nào đây. Người khác sung sướng, thảnh thơi, bình thường, hạnh phúc yên vui, thoải mái, bình lặng. Còn tại sao tôi lại đau đớn, khó chịu, khó thở, ngột ngạt, cảm thấy xa lạ mất gốc rễ. Có lẽ Trời đã đày tôi như thế. Có lẽ Trời đã hành phạt tôi như cha tôi đã hành phạt tôi khi tôi còn bé. Hành phạt một cách vô cớ (hay là có cớ mà tôi không biết?). Tôi là một kẻ phạm tội mà không biết phạm tội gì:

Hãy thương hại tôi… Đừng ném quăng tôi vào giữa những kẻ bị xử phạt (Kafka).

Lời van xin của Kafka thống thiết vô cùng, thế mà trời xanh vẫn thản nhiên im lặng;

Con đã bị ném quăng, bị phán xử và bị hành phạt, chà đạp. Chỉ có ý nghĩ trốn thoát bất cứ nơi nào cũng đã an ủi con nhiều. (Kafka, "Thư gửi cho cha")

Nhân vật chính trong quyển Der Prozess (Le Procès) của Kafka bị buộc tội là phạm nhân mà hắn cũng chẳng biết phạm tội gì. Hắn chỉ biết có điều là hắn vô tội.

Quyển Der Prozess mở đầu: “Có lẽ là một người nào đó đã vu cáo Joseph K. bởi vì chẳng làm gì quấy cả mà hắn đã bị bắt vào một buổi sáng tươi đẹp”.

Sống và không biết mình sống làm gì. Đi và không biết mình sẽ đi đâu. Chết và không biết tại sao mình chết. Bị buộc là kẻ phạm tội và không biết mình đã phạm tội gì. Đó là tất cả ý nghĩa của Phi lý.

MỘT CON VẬT

Thế giới này là thế giới của những con người lành mạnh, trí óc quân bình, có tổ tiên, có truyền thống, có nguồn gốc, sống thoải mái trong vòng xã hội tôn ti trật tự.

Kẻ xa lạ là kẻ bị đày hay kẻ mất gốc hay kẻ phạm tội vốn là một đứa bé rụt rè nhút nhát - “ein ängstliches Kind”; tính từ ängstlich có nghĩa là “lo âu, cảm thấy khó chịu, đau đớn, bực bội, sợ sệt dè dặt, rụt rè, nhút nhát…” Tuổi thơ đã quyết định cuộc đời sau này; vì khi lớn lên vào đời, kẻ xa lạ ấy (hay kẻ bị đày hay kẻ mất gốc hay kẻ phạm tội” có cảm tưởng mình là một con vật, một con sâu bọ phá hoại (das Ungeziefer) hay một con thú rừng (Waldtier) giữa xã hội loài người.

Truyện “Die Verwandlung” (“La Métamorphose”) của Kafka mở đầu như vầy: “Một buổi sáng sau một cơn mộng mị, Gregor Samsa thức giấc và thấy mình biến thành con sâu bọ kinh khủng[1] .

Hằng ngày Gregor Samsa đã cực khổ hết sức để giúp đỡ gia đình; mỗi ngày, hắn phải thức dậy sớm để đi làm việc kiếm tiền về nuôi cha mẹ và em gái, hắn chịu mọi nhọc nhằn để cho gia đình được sống ấm cúng đầy đủ. Bỗng nhiên, một hôm giựt mình thức giấc, hắn thấy mình không còn là người nữa và đã hoá thân thành một con vật. Thể xác là vật nhưng tinh thần của Gregor Samsa vẫn còn là người; đó mới là bi kịch thảm khốc của hắn. Gia đình hắn kinh tởm hắn. Ông cha ném một trái pomme vào mình hắn. Hắn bệnh, rồi chẳng bao lâu hắn chết. Cả gia đình hớn hở. Người đọc cảm thấy lạnh xương khi đi vào gian phòng lạnh lẽo của Gregor Samsa; Kafka không có ý dàn bày để người đọc phải hoảng hốt; Kafka chỉ viết với giọng điệu lạnh nhạt dễ dãi; đọc truyện Kafka, ta không thể đọc theo lối truyện thông thường. Tôi không nghĩ cần phải đọc lại Kafka nhiều lần mới hiểu được Kafka.

Đọc Kafka (cũng như đọc Rimbaud hay những thiên tài phi lý khác), nếu ta hiểu được là hiểu ngay lập tức, còn nếu ta không hiểu được thì dù có công phu khó nhọc đọc đi đọc lại đến mười lần cũng không thể nào hiểu được. Kafka (hay (Faulkner) viết văn không phải cố ý làm cho khó hiểu kỳ hoặc. Nếu Kafka (hay Faulkner) có khó hiểu chăng; đó là chính ta đã làm ra khó hiểu, vì trước khi đọc, ta cố ý đi tìm xem Kafka (hay Faulkner) muốn nói những gì; đừng nên tìm kiếm gì cả, cứ đến tác phẩm Kafka (hay Faulkner) như đến một nghĩa địa vào buổi hoàng hôn. Và ta sẽ hưởng được nhiều cảm giác mông lung lạnh lẽo. Nếu đem cái óc lý luận phê bình của ta mà đọc Kafka, ta sẽ thấy vô lý và chán nản ngay bởi vì giọng văn của Kafka lơ thơ lạnh lùng như mấy cơn gió hiu hắt ở bãi tha ma và phản luận lý học như những nấm mồ xơ xác…

Một buổi sáng, sau một cơn mộng mị, Gregor Samsa thức giấc và cảm thấy mình biến thành một con sâu bọ khủng khiếp. Als Gregor Samsa eines Morgens…

Đọc xong đoạn văn trên rồi ta cứ tiếp tục đọc tới, đừng phân vân thắc mắc lý luận.

Tất nhiên ta sẽ ngạc nhiên, với lời mở đầu lạ lùng trên nhưng đừng ngừng lại tra hỏi làm gì, cứ đọc tới, sự ngạc nhiên ấy sẽ dồn dập biến thành bao nhiêu cảm giác. Gregor Samsa (hay Kafka hay chúng ta) một buổi sáng thức dậy thấy mình không còn mang xác người nữa; cả gia đình xôn xao và sợ hãi nhưng Gregor Samsa lại bình thường như chẳng có việc gì xảy ra, vẫn lo lắng sợ trễ giờ đi làm việc, vẫn những cử chỉ, những thói quen như hàng ngày; hắn ngạc nhiên thấy người nhà hắn khiếp sợ hắn.

Nếu Gregor Samsa hoàn toàn là một con vật thì truyện “Die Venwandlung” (“Métamorphose”) chẳng có ma lực gì để có thể đưa ta vào thế giới bi đát ấy. Bi đát không phải Gregor Samsa là một con vật; bi đát là Gregor Samsa không phải hoàn toàn là con vật mà cũng không phải hoàn toàn là con người; Samsa ở chính giữa nửa người nửa vật và không biết mình thuộc về đâu; loài người không nhận Gregor Samsa mà loài vật cũng không nhận hắn. Trời không nhận mà đất không nhận. Khi Gregor Samsa chết, người đầy tớ đem quét bỏ và thùng rác. Gregor Samsa của Kafka nhắc ta nhớ đến nhân vật Yank của Engene O’Neill trong vở kịch The Hairy Ape (Con khỉ có lông); Yank cũng chết vì loài vật không nhận Yank vào loài chúng mà loài người cũng chẳng nhận Yank vào loài họ. Yank không biết mình thuộc về loài gì? Mọi nơi đều phủ nhận hắn. Cộng sản cũng như tư bản, loài người cũng như loài vật đều khước từ hắn.

Trước khi chết Gregor Samsa “nghĩ đến gia đình hắn với lòng dịu dàng yêu thương”.

Đọc xong truyện “Métamorphose”, mình cảm thấy cô đơn lạ lùng. Tác phẩm “Métamorphose” đã chung đúc cô đọng lại tất cả bi kịch chua xót của Kafka và quyển Château hay Procès chỉ lập lại một vài khía cạnh của “Métamorphose”.

Những nhà phê bình hay đặt tầm quan trọng vào quyển ProcèsChâteau: dường như họ bỏ quên “Métamorphose” hoặc chỉ để ý sơ sài thôi (trừ ra Paul-Louis Landsberg, triết gia hiện sinh Đức, đã lưu ý đến tầm quan trọng của tác phẩm “Métamorphose”; ông đã viết riêng một bài về tác phẩm trong tạp chí Esprit, Sept. 1938-cf. Landsberg, “Problèmes du Personnalisme”, tr. 83-98).

Kafka xa lạ, Kafka bị đày. Kafka mất gốc, Kafka phạm tội: tất cả Kafka xa-lạ-bị-đày-mất-gốc- phạm-tội đều nằm trong “Métamorphose”.

Kafka (cũng như Leopardi, thi sĩ thiên tài bi đát của Ý ở thế kỷ XIX) đều là kẻ cô đơn tuyệt đối: Kafka (hay Leopardi) đều muốn sống tầm thường như mọi người nhưng rút cục rồi họ đều thất bại chua xót: cả hai đều chết khoảng bốn mươi tuổi, chết vì bệnh: nguyên nhân gây bệnh là không thể sống nổi trên đời này: Kafka coi bệnh lao của ông như là sự tràn trề thái quá của cơn bệnh tâm linh. Lúc biến thành con vật và nằm trong nỗi cô đơn khốc liệt, Gregor Samsa nghe em gái đàn vĩ cầm, Gregor Samsa cảm xúc vô cùng và bò ra khỏi phòng đi đến em gái để tỏ lòng mến thương của hắn, nhưng hắn đã thất bại, vì khi hắn bước ra phòng khách, mấy người đứng nghe nhạc sửng sốt và cô gái ngưng đàn. Hắn thất vọng: hắn có biết đâu hắn là con quái vật đã phá hoại cuộc vui: hắn không còn là một người anh hay là một người con trong gia đình, hắn chỉ là một kẻ xa lạ, một kẻ bị đày, kẻ mất gốc, kẻ phạm tội hay gọn hơn là một con vật ở giữa phòng khách lịch sự của loài người. Đó là những lý do sau này khiến hắn hết lặng lẽ trong phòng.

Kafka cũng thế. Nẳm trong nỗi cô đơn khốc liệt, Kafka đã nghe được tiếng vĩ cầm du dương của thiên hạ, cũng như Gregor Samsa, Kafka cảm xúc vô hạn và nhận ngay rằng tiếng nhạc thướt tha ấy là “con đường mở ra đưa đến lương thực xa lạ” mà Kafka đã thèm muốn suốt đời.

Cũng như Gregor Samsa, Kafka bước ra khỏi phòng và vừa mới bước ra đã bị xua đuổi…Mấy lần định lập gia đình để sống cuộc đời tầm thường như bao kẻ khác, để tìm “lương thực xa lạ” cho tâm hồn cô đơn mãnh liệt của mình,thế mà Kafka đã bị thất bại. Cũng như bao đêm ngày thao thức, tâm hồn cô đơn của Kafka đã đi tìm “lương thực xa lạ” nơi Văn chương; đối với Kafka, viết văn là “đọc kinh”. Kafka cũng thất bại luôn. Trước khi chết, Kafka đã dặn một người bạn đốt hết mấy tác phẩm của ông.

Hư vô đã tàn phá Kafka, ăn mòn ruỗng Kafka từng giờ từng phút. Kafka đã chạy trốn Hư vô. Nơi nào? Que faire? Fuir? Mais òu? Et à quoi bon? (Milosz). Chạy trốn ở đâu? Kafka chạy trốn tìm giải thoát ở Tình yêu, nào là em Felice B., em Milena Jesenska, em Dora Dymant vân vân, nhưng rồi các em cũng chỉ là những người đàn bà như nhiều người đàn bà khác và linh hồn tôi suốt đời vẫn buốt giá cô đơn? Cần gì tình yêu? À quoi bon? Phải không người con trai già không vợ tên là Nietzche, tên là Schopenhauer?

Không thể giải thoát bằng Tình yêu được. Das ist unmöglich. Kafka chết.

Tôi phải trở về bóng tối, tôi không thể chịu đựng nổi mặt trời, tôi đã đi lạc đường lạc lối không khác gì một con vật mất hướng. (Kafka)

Tình yêu, Văn chương. Tất cả đều thất bại. Kafka đã trốn Hư vô, nhưng làm gì trốn được, bởi vì Hư vô ở ngay trong người Kafka; trốn Hư vô là trốn minh, giết Hư vô là giết mình; bởi vì Kafka và Hư vô. Bởi thế khi Kafka vừa diệt được Hư vô thì vừa lúc ấy, bóng tối kêu gọi Kafka trở về…

Tôi phải trở về bóng tối…

Vâng, Kafka hay tất cả mọi người ai cũng thế sớm hay muộn gì cũng phải trở về bóng tối, dù muốn hay không; nhưng trước khi trở về bóng tối, chúng ta hãy cất tiếng lên ca tụng ánh sáng mặt trời.

Không. Không. Không. Nein. Nein. Riêng tôi, tôi không thể nào hát nổi; vì mặt trời đã thiêu đốt buồng phổi tôi. Có lẽ Kafka sẽ trả lời như thế?


3.

Trời càng về khuya càng trở lạnh, mưa vừa dứt, nhưng gió vẫn thổi ào ào ngoài bãi đất hoang; hắn nhìn về hướng rừng núi. Trời tối đen, hắn chỉ nghe tiếng chim rừng vọng lại xa xôi. Hắn ngồi lừ đừ trước hai cây đèn cầy. Hắn cô đơn. Mấy năm nay, cuộc đời hắn lênh bênh như mấy đám lục bình trôi sông. Sau mấy ngày bơ phờ vất vưởng trên những hè phố Sài gòn bây giờ hắn trở về đây để sống đỡ cho qua ngày tháng. Phi Nôm là một làng bé nhỏ, núi đồi vây phủ chung quanh, chim về rất nhiều bởi vì làng nằm ngay bên rừng; thỉnh thoảng nai và heo rừng về kiếm ăn; nhất là chim, giàn đậu năm nay thất mùa, chim chim. Đêm nay, hắn ngồi trước hai cây đèn cầy và hắn cười. Cuộc đời là danh từ trừu tượng, hắn cười ra nước mắt. Hắn nhìn bức ảnh Kafka để ngay nơi bàn viết. Hắn nhìn đôi mắt Kafka, Ngọn đèn cầy leo lét. Ôi quê hương, ôi miền hoa thơm cỏ biếc… Kennst du das Land, wo die Zitronen blühn? Im dunklen Laub die gold Orangen glühn, ein sanfter Wind vom blauen Himmel weht, die Myrte still und hoch der Lorbeer steht (Goethe). Hỡi Kafka, người có biết dải đất mà nơi đó những cây chanh trổ hoa, những quả cam vàng lóng lánh trong những lá đen, một ngọn gió dịu dàng tự trời xanh tha thướt thổi về, cây sim dại lặng lờ và cây nguyệt quế cao chênh vênh. Người có biết giải đất ấy chăng? có biết chăng? Hỡi Kafka, hỡi Kafka, người có biết miền hoa thơm cỏ biếc ấy chăng?

Đôi mắt Kafka khắc khoải trả lời yếu đuối: Không phải vì cuộc đời Moise quá ngắn, nên Moise không đến được Chanaan, mà bởi vì đó là cuộc đời của con người. Đôi mắt Kafka vương cả nỗi buồn quê hương. Làm sao trở về Chanaan? Làm sao trở về đất hứa? Đứng trên ngọn núi Nébo, Kafka đau đớn rưng rưng nhìn về Chanaan hai dòng lệ chảy dài chua xót: “ôi quê hương thân yêu… Quê hương, Quê hương… Dunkel ist das Leben und der Tod. Cuộc đời đen tối và đen tối cõi chết…” Kafka không bao giờ được trở về quê hương, bởi vì Kafka chỉ là một con người.

Connais – tu le pays òu les citrons fleurissent? Kennst du das Land, wo die Zitronen glühn?…

Người có biết giải đất mà những cây chanh đang trổ hoa? Những quả cam vàng lóng lánh… Hắn không hỏi nữa, vì hắn chợt thấy đôi mắt Kafka rưng rưng và hai giọt lệ chảy dài đau đớn. Hắn cảm thấy xót xa vô hạn bởi vì hắn cũng là một kẻ nhớ quê hương da diết như Kafka. Có những chiều tê tái, mưa đổ bâng quơ, hắn nhớ quê hương quá đến nỗi hắn run rẩy bò lên triền núi chênh vênh để mà ngóng tìm mơ hồ…

Nẻo nào trở về Tipasa? hắn nhắm mắt nghẹn ngào bởi vì hắn chỉ nhìn thấy mặt biển hư vô đen tối, hắn rùng mình ớn lạnh và thỉnh thoảng hắn muốn nhảy xuống để thoát lìa ngục tù thân thể… Ôi cô đơn. Ôi, cô đơn khốc liệt!

Cô đơn, cô đơn hoàn toàn cô đơn,
Cô đơn trên mặt biển bao la!
Không có một thần thánh nào thương xót
Linh hồn quằn quại của ta.
(Coleridge)

Những đêm thao thức, hắn đã bàng hoàng nghĩ ngợi? Tại sao từ lúc nhỏ đến lớn, không lúc nào hắn lại cảm thấy hạnh phúc? Tại sao tất cả những mộng đời huy hoàng đều biến thành số không? Tai sao dâng trọn cả tấm lòng chân thành cho đời mà vẫn bị đời hành hạ? Tại sao hắn đã già trước tuổi, đã nỡ để thanh xuân phôi pha úa tàn theo dòng man dại đắng cay?

Hỡi ôi! Tôi không bao giờ được trẻ; khi hãy còn thanh xuân, tôi đã già một ngàn tuổi hơn một cụ già. (Kierkegaard)

Nửa đêm chợt thức, hắn lại giựt mình tự hỏi tại sao mình nằm ở đây? Rồi mai mình chết ư? Chết. Chết. Tôi là ai sống để làm gì? để làm gì? Không có được không? Chết. Hắn sợ loạn óc, nên không dám tự hỏi vớ vẩn nữa, hắn bịt mắt lại, cố gắng nằm nghĩ chuyện khác. Mỗi ngày, hắn chỉ sống bơ phờ chán nản, hắn nghĩ rằng ngày mai sẽ khá hơn, sẽ đỡ hơn, sẽ tươi tốt hơn, nhưng nào ngờ càng ngày hắn càng chìm xuống, chìm xuống một cách đau thương không lối thoát. Tiếng chim quốc vọng lại sau núi.

Hắn nhớ lại ngày cuối cùng trước khi giã biệt Đà Lạt, bà chủ cho thuê phòng có buồn rầu nói với hắn; “ngày đầu tiên ông mới đến đây, ông đã nói rằng đây là thiên đàng của ông, ông sẽ ở đây sau này và sẽ chết luôn tại đây, vậy sao nay ông lại bỏ đi? Ôi cuộc đời thực là buồn nhỉ? Ông đi rồi còn có nhớ thành phố này không?”

Câu nói ấy ngày nay vẫn văng vẳng bên tai hắn. Ừ, hắn đã bỏ Đà Lạt mà đi. Ngày trước, hắn đã chửi bỏ nơi sinh đẻ hắn mà bỏ đi biệt luôn; hắn thù ghét nơi hắn đã sinh trưởng và bỏ đi không bao giờ trở lại; trên nẻo đường xuôi ngược một hôm tình cờ hắn đến Đà lạt, hắn sung sướng tự nhủ: “Nơi đây, nơi đây chắc mình tìm được thanh bình”.

Hắn tươi cười dừng chân lại và ở luôn tại Đà Lạt. Hắn đã hạnh phúc. Những đêm trăng lang thang trên đường phố đầy sương, những chiều mưa lạnh ngồi trong quán cà phê lặng lẽ nghe nhạc, những buổi chiều nắng vàng nhuộm cả đồi thông. Ừ, hắn đã hạnh phúc. Hắn ở Đà Lạt gần hai năm, thế rồi bỗng nhiên một hôm đang đi lang thang giữa đường phố, bỗng nhiên hắn chợt thấy rằng hắn đã mất mát và hắn cảm thấy nhơ nhớ…

Hắn cũng chẳng biết nhớ gì, hắn chỉ thấy có gì chán chán… Ừ, Đà Lạt vẫn đẹp, nhưng bỗng nhiên hắn thấy vẻ đẹp ấy lạnh lùng quá, thờ ơ quá; vẻ đẹp ấy không còn nồng nàn đón tiếp hắn như những ngày đầu tiên… Thế rồi một sáng kia hắn cuốn cả hành lý bỏ Đà Lạt và định sẽ không bao giờ trở lại nữa. Ngày lên đường hắn chẳng lấy gì hối tiếc. Hắn về ở Sài Gòn, nơi mà trước kia hắn thù ghét vô cùng. Mấy tuần lễ, hắn sống vui sướng ở thủ đô.

Rồi bỗng nhiên, một chiều kia, cũng đang lang thang trên mấy đường phố đông người giữa Sài Gòn, hắn bỗng cảm thấy mất mát và cảm thấy nhơ nhớ. Hắn nhớ Đà Lạt mà hắn vừa mới bỏ đi. Hắn muốn trở về lại, nhưng… và bây giờ hắn ngôi đây trước hai cây đèn cầy trong một gian nhà lạnh lẽo ở một vùng rừng núi. Cô đơn. Nơi đây chỉ cách Đà Lạt có hai mươi cây số, nhưng hắn sẽ không trở về Đà Lạt nữa.

Hắn nhớ Đà Lạt lắm, nhưng không về. Hắn muốn làm một Tantale. Tâm trạng hắn kỳ quái.

Ở thiên đàng thì hắn lại chán và muốn đi xuống hoả ngục và khi đã xuống hoả ngục thì hắn lại muốn trở về thiên đàng, rồi khi được về thiên đàng thì ở một thời gian rồi hắn bỗng chán và muốn trở về hoả ngục. Phải chăng đó là ý nghĩa cuộc đời? Con người chỉ hạnh phúc khi chưa đạt được và lúc đã được rồi thì lại bỗng chán. Hắn than rằng hắn cô đơn, nhưng khi hắn không còn cô đơn nữa thì lúc bấy giờ hắn lại thèm muốn cô đơn. Như vậy nghĩa là gì? Hắn có hiểu Kafka chưa? [2] Ngoài kia mưa lại bắt đầu rơi. Tiếng dế vang rền ngoài bụi hoa. Hắn muốn được Tự do; hắn lại van xin muốn được Nô Lệ. Con người là thế?

Thần thoại Hy Lạp trở về lảng vảng bên tai. Tantale đói khát kinh khủng và trái ngon đung đưa ngang miệng, thế mà khi Tantale hả miệng muốn ăn thì thần thánh lại không cho ăn. Tantale bị hình phạt bi đát thế, nhưng ta phải nghĩ rằng Tantale hạnh phúc. Il faut imaginer Tantale heureux (Mythe de Tantale…).

Gió ào ào qua mái nhà. Hắn cười sung sướng khi nghĩ đến việc đổi tên Sisyphe lại là Tantale, ừ, thay vì Mythe de Sisyphe phải đổi lại là Mythe de Tantale. Gió thổi ào ào quá mạnh, mái nhà lay chuyển dữ dội; hắn rùng mình, hai ngọn đèn leo lét. Hắn ngồi dở lại từng trang Tân Ước Kinh và nói thầm bâng quơ: “bởi vì tôi đã là cô đơn ngay từ lúc chào đời và rồi đây tôi cũng sẽ chết cô đơn; tôi chỉ là con người và tôi chỉ muốn làm người ở trần gian hiu quạnh này; thiên đàng tươi đẹp, trần gian xấu xa đen tối, nhưng bởi vì tôi đã là người, tôi xin làm người đến trọn đời và tôi sẽ luôn luôn thuộc về trần gian này, tất nhiên tôi sẽ khổ nhưng tôi vẫn khước từ hạnh phúc. Nơi nào có Tình yêu, nơi đó sẽ hết cô đơn… Tôi xin khước từ Tình yêu. Nơi nào có Tình yêu nơi đó sẽ hết hư vô… Tôi xin khước từ Tình yêu và tôi xin chấp nhận hư vô, chấp nhận cô đơn”.

Hắn sung sướng nhìn bức ảnh Kafka, Hỡi Kafka, tại sao người không chấp nhận cô đơn? Tại sao người cứ mãi trốn cô đơn? Người có trốn được không? Hỡi cô đơn, người em gái thân yêu của tôi! Hỡi Kafka, tôi là, và tôi vẫn muốn luôn luôn tôi là, tôi không muốn trở nên, tôi chỉ muốn là: trở nên thì lừa dối lường gạt; không lừa dối: trở nên thì hạnh phúc; thì đau khổ; hạnh phúc chỉ lường gạt; đau khổ là tôi, là con người, là trần gian này; tôi rờ mó nhìn thấy được Đau khổ.

“Là” có nghĩa “là tôi”; “là tôi” có nghĩa là “Hư vô” mà “hư vô” là “không”; bởi thế “Là” cũng có nghĩa “không là”. “Trở nên” ở chính giữa, nửa “Oui” “Ja”, nửa “Non” “Nein”.

Tôi là chết, là hư vô, là cô đơn; tôi chấp nhận thế và tôi không muốn trở nên cái khác. Trước cái chết, tôi nói oui, yes, ja; sự chất dính liền với cuộc đời, bởi thế khi tôi nói oui với sự chết thì có nghĩa tôi nói oui với cuộc đời, Hỡi Kafka, người đã lưỡng lự, người nửa muốn nói oui, ja, nửa muốn nói non, nein; đó là bi kịch khốc liệt của người. Hỡi Kafka, đêm nay, tôi cô đơn, cô đơn vô hạn, nhưng tôi không muốn trốn cô đơn nữa, từ đây cô đơn là tình nhân của tôi. Hỡi cô đơn, người em gái thân yêu của tôi!

Giữa đêm khuya, bên hai ngọn đèn ma quái, hắn đã nói những gì với Kafka? Hắn đã tâm sự những gì? Mưa bắt đầu rơi lại; giọt mưa gõ tiếng lào rào trên mái nhà. Hắn gọi hồn Kafka về để hắn được chia sớt đôi chút tâm tình chua xót đau thương. Một cơn gió lạnh nổi lên ào ào. Đầu tóc rối xoả, Kafka bỗng hiện hồn về trừng mắt đau đớn nhìn hắn. Ánh đèn cầy chập chờn muốn tắt.



[1]Nguyên văn: Als Gregor Samsa eines Morgens aus unruhigen Träumen erwachte, fand er sich in seinem Bett zu einem ungeheuren Ungeziefer verwandelt (“Die Verwandlung”, cf. Franz Kafka, Die Erzählungen) S. Fisher Verlag, Berlin 1961, trang 39.
[2]Ý nghĩa tác phẩm Kafka rất phong phú và phức tạp, có lẽ phức tạp nhất trong văn học hiện đại. Những nhà phê bình đều có những nhận định hoàn toàn phản nghịch nhau. Theo nhà văn Anh J. B. Priestley thì tất cả những nhà phê bình đều không lãnh hội được ý nghĩa tác phẩm Kafka, vì những nhà phê bình ấy đã không đi vào được niềm bí ẩn của nghệ thuật Kafka, khi họ đồng hoá lầm lẫn nghệ thuật tượng trưng (symbolism) với lối sử dụng ngụ ngôn (allegory). Đối với J. B. Priestley, sở dĩ Kafka lôi cuốn hấp dẫn được đủ mọi hạng người trí thức là vì Kafka đã viết văn theo lối tượng trưng một cách chân thành và sâu thẳm nhứt (xin đọc J. B. Priestley, Literature and Western Man, tr. 410-420). Lời nhận định của J. B. Priestley có giúp gì thêm cho niềm suy tư của ta không?


Chương tư

Ý thức khắc khoải - Tưởng niệm Jean – René Huguenin hay là niềm bơ vơ của thanh niên thời đại
Một con ong chết
(J. R. Huguenin, La Côte Sauvage, trang 67)

Một con ong chết.

Nắng xế qua triền cửa sổ.

Mùa hè đổi hướng.

Cummings chết: tôi không buồn. Hemingway, Blaise Cendrars, Hermann Hesse, Faulkner chết, tôi không buồn. Một con ong chết: tôi buồn lắm.

Jean-René Huguenin vừa mới chết: tôi buồn lắm. Anh mới hai mươi sáu tuổi và chỉ xuất bản một tác phẩm; quyển La Côte Sauvage là quyển tiểu thuyết duy nhất của anh. Anh viết tiểu thuyết quá buồn. Nắng chiều. Đêm. Đêm tối. Raymond Radiguet. Chatterton. Anne Frank, Lenau, James Dean.
M. Monroe vừa mới chết.

Jean-René Huguenin vừa mới chết.

“Tôi không biết. Anh đã tìm thấy gì?”

“Một con ong chết”.

Je ne sais pas. Qu‘est-ce que vous avez trouvé?”

“Une abeille morte.”

Jean-René Huguenin đã viết hai câu trên trong quyển La Côte Sauvage (trang 67).

Pierre, nhân vật trong quyển ấy, là một chàng trai trẻ rất buồn, một người cô độc, một kẻ ích kỷ không tự thương mình L‘égoiste qui ne s‘aime pas (tr. 70). Pierre yêu người em gái của một người bạn thân chàng…

Một hôm. Pierre bỗng tìm thấy một con ong chết trên triền cửa sổ. Et ce fut l’autre versant de l’été, le jour où Pierre découvrit, sur le rebord de sa fenêtre, une abeille morte (tr. 65). Lòng người luân lưu thay đổi như những cây dương xỉ vàng xẫm, như hoa bát tiên chóng tàn, như những ngày xế bóng hoa đưa, như những con ong khô chết: Alors l‘évidence éclatait; les fougères brunissaient, les hortensias se fanaient, les jours déclinaient plus vite, les abeilles mouraient- c’était l’autre versant de l‘été (tr. 65).

Ừ, hỏi làm gì? Đời là ngộ nhận triền miên. Người làm gì biết được. Mỗi người là một vạn lý trường thành, chắn lại hết giao thông. Người làm gì hiểu được ta. Ngộ nhận là chân lý: chắc người không hiểu tôi đã tìm thấy gì trên triền cửa sổ vào buổi sáng ngay?

Vous ne savez pas ce que j‘ai trouvé ce matin sur le rebord de ma fenêtre? (tr. 66)

*


Báo Pháp đăng tin rằng Jean-René Huguenin đụng xe chết. James Dean, Albert Camus.

Tôi giở lại quyển La Côte Sauvage và tình cờ gặp lại một đoạn văn như sau:

On ne meurt pas d‘ennui

Non, pas d’ennui. De rien… Je mourrais comme ça, de rien (tr. 86).

Jean-René Huguenin sinh ngày 1 tháng 3 năm 1936 tại Paris, bắt đầu viết văn hồi còn rất nhỏ, viết báo vào năm 18 tuổi, xuất bản quyển La Côte Sauvage vào năm 1960.

*


Nhân vật chính của La Côte Sauvage là Olivier. Chàng đi quân dịch vài năm rồi được giải ngũ trở về sống lại với gia đình.

Gia đình chàng chỉ gồm có mẹ, chị và em gái. Quê hương chàng buồn lắm. Biển, Gió, Đá cuội. Sương mù. Olivier rất yêu em gái, nhưng không thích chị. Sau hai năm nhập ngũ, lúc trở về lại đời sống bình thường, Olivier thay đổi. Chàng cảm thấy cô đơn dị thường (tr. 29, 43, 57 v. v…) Đứa em gái chàng tên là Anne, chàng thương Anne ngay từ thuở bé thơ. Bây giờ chàng được tin em sắp lấy chồng; chồng Anne là bạn thân của chàng tên là Pierre. Pierre và Anne đầm ấm xoắn xít nhau. Olivier cô đơn. Olivier định ngăn cản đám cưới. Những thoáng nhìn, những câu hỏi xa xôi, những cử chỉ thông thường của Olivier đã khiến Pierre buồn nhiều. Pierre chán nản. Một dạo, Olivier cũng khiến Anne chán Pierre. Olivier vẫn muốn Anne sống mãi bên cạnh chàng. Tại sao thế? Thực khó trả lời. Sau cùng, Pierre và Anne vẫn lấy nhau. Họ dẫn nhau đi Paris và Tây Ban Nha. Chỉ còn Olivier ở lại sống cô đơn.

Quyển La Côte Sauvage đưa tôi vào nỗi cô đơn mênh mông của Olivier, của Pierre.

Lối văn của Huguenin rất ngắn và giản dị. Tôi đã đọc quyển La Côte Sauvage đến hai lần. Thế mà tôi không thể viết nhiều về quyển này vì La Côte Sauvage là một quyển để đọc và cảm và im lặng. Chúng ta đã tìm được sao mai rồi?


No comments:

Post a Comment